Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
1.1. Khái niệm:
Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà NHTW thông qua các hoạt
động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Chính sách tiền tệ của 1 quốc gia về cơ bản có 2 loại:
− Chính sách mở rộng tiền tệ: Còn được gọi là chính sách nới lỏng tiền tệ.
Chính sách này được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất
nghiệp gia tăng. Chính sách mở rộng tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền tệ
chống suy thoái.
− Chính sách thắt chặt tiền tệ: Còn được gọi là chính sách đóng băng tiền tệ.
Loại chính sách này được áp dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá,
đồng thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa
với chính sách tiền tệ chống lạm phát.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô thì chính sách tiền tệ có vai trò khá quan
trọng, tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Ngoài ra nó còn có mối quan hệ chặt
chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác: chính sách tài khóa, thu nhập, kinh tế đối ngoại.
Tùy từng giai đoạn cụ thể mà có thể thực thi chính sách tiền tệ theo hai hướng:
− Chính sách mở rộng tiền tệ: tăng cung tiền, giảm lãi suất, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng làm tăng tỷ lệ lạm phát
− Chính sách thắt chắt chặt tiền tệ: giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm lạm
phát nhưng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
2.CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện bởi NHTW nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất thị trường, để
từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Gồm các công cụ chính sau:
2.1 Lãi suất:
Trang 1
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi
suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm
kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên
thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Bằng cách đưa ra một khung lãi suất hay một trần lãi suất cho vay để hướng các
NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng đến quy mô tín dụng của nền
kinh tế, NHTW có thể đạt được mức quản lý cung tiền theo ý muốn. Nếu tăng lãi suất tín
dụng sẽ thu hẹp quy mô tiền tệ và ngược lại.
Chẳng hạn, muốn sử dụng công cụ này NHTW sẽ quy định:
Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn
Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn
Công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch
Ưu điểm: Giúp NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời
kỳ.
Nhược điểm:
- Dễ làm mất đi khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì lãi suất là giá cả
của vốn, do đó nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung - cầu về vốn
trong nền kinh tế.
- Là một công cụ cứng nhắc, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu
tư.
2.2 Dự trữ bắt buộc:
Là tỷ lệ giữa số tiền mà các NHTM phải giữ lại do NHTW quy định, được gửi tại
NHTW (một phần được giữ lại dưới dạng tiền mặt tại NHTM), không được dùng để đầu tư
cho vay trên tổng số tiền gửi huy động. Nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và sự ổn định
của hệ thống ngân hàng.
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến cơ chế tạo tiền của các
NHTM. Khi tăng (hay giảm tỷ lệ) này thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ giảm (hoặc
tăng) theo, làm lãi suất cho vay tăng ( giảm), lượng tiền cung ứng giảm (tăng) theo.
Ưu điểm:
Trang 2
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- Có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền
lực.
- Một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo ra tác động rất lớn đối với khối tiền
tệ.
Nhược điểm:
- Khó có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này khi muốn thay đổi cung tiền tệ ở
biên độ nhỏ.
- Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các
Ngân hàng thương mại.
- Thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các
Ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân
hàng này khó khăn hơn.
2.3 Cho vay tái cấp vốn:
NHTW thường cho các NHTG vay dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá
ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu) do các NHTG đưa đến, bởi vậy
chính sách cho vay của NHTW đối với các NHTG được gọi là chính sách tái chiết khấu.
Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay
chiết khấu (DL) của các NHTG, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng.
Ưu điểm: các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có
giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi đến hạn.
Nhược điểm:
- Tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các NHTG có nhu cầu vay từ
NHTW. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTG có thể tìm kiếm được
các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHTW
giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
- NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này bởi
NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu
mà không thể bắt các NHTG vay từ mình.
2.4 Nghiệp vụ thị trường mở:
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường
tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các
Trang 3
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng
thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Cơ chế tác động: Khi NHTW mua ( bán ) chứng khoán làm cho cơ số tiền tệ tăng
lên ( giảm đi), dẫn đến mức cung tiền tăng lên ( giảm đi) làm thay đổi lượng
tiền dự trữ của các NHTM, lương tiền mặt trong lưu thông.
Ưu điểm:
- NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của các
NHTG
- Tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào
- Dễ dàng đảo ngược lại khi có sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành
- Có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành
chính
Nhược điểm: công cụ này chỉ phát huy hiệu quả khi có sự phát triển cao của cơ
chế thanh toán không dùng tiền mặt và có một thị trường tài chính phát triển.
2.5 Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Sự can thiệp nhằm tác động tới tỷ giá hối đoái
được thực hiện thông qua các hoạt động mua vào hoặc bán ra ngoại tệ của NHTW trên thị
trường ngoại hối. Mức độ can thiệp của NHTW vào sự hình thành tỷ giá hối đoái trên thị
trường phụ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái mà quốc gia đó áp dụng.
Có ba chế độ tỷ giá hối đoái mà các nước đã và đang áp dụng:
− Chế độ tỷ giá cố định: NHTW mua vào hay bán ra đồng nội tệ nhằm giới hạn sự
biến động của tỷ giá trong biên độ đã định. Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro của
việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác do tỷ giá được cố định. Tuy
nhiên ngày nay nó ít được các nước sử dụng do gây ra vấn đề phụ thuộc của
CSTT vào các biến động của bên ngoài ,hơn nữa,để tiến hành can thiệp trên thị
trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào.
− Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy
luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự canthiệp nào của
Trang 4
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
NHTW. Chế độ tỷ giá này được đánh giá là giúp cho CSTT quốc gia được độc
lập, ít chịu ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài . Tuy vậy, chế độ tỷ giá
này lại gây ra sự biến động thường xuyên của tỷ giá hối đoái, khiến cho các hoạt
động chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác luôn hàm chứa rủi ro.
− Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: NHTW tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ
giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm.
2.6 Hạn mức tín dụng:
Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức
dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi
cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Ưu điểm: giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng đặc biệt là
trong giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế.
Nhược điểm:
- Bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt
- Thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và sự lỏng lẻo của các chế tài
trong việc quản lý hạn mức này
- Giảm tính cạnh tranh giữa các NHTM.
II/ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2004 - 2009:
1 CÔNG CỤ LÃI SUẤT
Các văn bản pháp luật liên quan đến điều chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong giai đọan năm 2004 - 2009:
Trang 5
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
STT Số văn bản Ngày hiệu lực Lãi suất cơ bản (%/năm)
1 2665/QĐ-NHNN 01/12/2009 8
2 172/QĐ-NHNN 01/02/2009 7
1 3161QĐ-NHNN 22/12/2008 8.5
2 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008 10
3 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008 11
4 2559/QĐ-NHNN 05/11/2008 12
5 2316/QĐ-NHNN 21/10/2008 13
6 1434/QĐ-NHNN 01/07/2008 14
7 1099/QĐ-NHNN 19/05/2008 12
8 305/QĐ-NHNN 01/02/2008 8.75
1 1746/QĐ-NHNN 01/12/2005 8.25
2 93/QĐ-NHNN 01/02/2005 7.8
1 210/QĐ-NHNN 01/03/2004 7.5
BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT CƠ BẢN GIAI ĐOẠN 2004 - 2009
%/năm
16
14
12 13 12
12 11
10
7.8 8.25 8.75 8.5
8 7.5 7 8
4
0
Năm 2004, trước diễn biến chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh trong
những tháng đầu năm, trong khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra ở mức cao 7,5 - 8%, thị
trường vốn chưa thực sự phát triển, tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc
đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế. Từ tháng 03/2004, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời
điều chỉnh mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng hơn nhằm ổn định
tiền tệ, ổn định lãi suất, ổn định tỷ giá góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế. Để đạt mục tiêu trên, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức
7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 3%/năm.
Trang 6
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Năm 2005, trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng liên tục ở mức
khá cao và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong
năm 2005 đã chuyển mạnh sang các giải pháp thị trường, điều hành bám sát quy luật thị
trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở
phân tích diễn biến lãi suất tiền tệ, lạm phát trong nước và lãi suất trên thị trường quốc tế. Cụ
thể, trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7,5
- 7,8 - 8,25%/năm; 3 lần tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5,0 - 5,5 - 6,0 - 6,5%/năm, 3 lần
tăng lãi suất tái chiết khấu từ 3,0 -3,5 - 4,0 - 4,5%/năm. Bên cạnh đó, mức trần lãi suất
tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng đã đuợc điều chỉnh tăng 2 lần lên
mức 0,5% - 1,5%.
Nhìn chung, lãi suất thị trường trong năm 2005 đã tăng do điều kiện thị trường, nhưng không
đột biến và đảm bảo hài hoà mối quan hệ giữa người gửi tiền - tổ chức tín dụng - người đi
vay, tín dụng tiếp tục mở rộng đã hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Năm 2006, Ngân hàng nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất, đảm bảo sự
hợp lý giữa lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ trong mối quan hệ với tỷ giá. Ngân hàng nhà
nước giữ nguyên các mức lãi suất chính thức như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái
cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất tiền gửi USD tối đa của pháp nhân tại các TCTD đối với
tiền gửi không kỳ hạn là 0,5%/năm, kỳ hạn đến 6 tháng là 1,2%/năm và kỳ hạn trên 12
tháng là 1,5%/năm. Việc giữ ổn định lãi suất chính thức của Ngân hàng nhà nước nhằm
tránh tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường trước sức ép tăng lãi suất thị trường quốc tế và lạm
phát trong nước vẫn ở mức cao, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng
huy động và cho vay đối với nền kinh tế.
Năm 2007, với mục tiêu phát triển nền kinh tế và duy trì mức tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng nhà nước ra quyết định lãi suất cơ bản đồng Việt Nam vẫn duy trì ở mức ổn định
là 8.25%/năm áp dụng từ ngày 01/01/2007 (2517/QĐ-NHNN ngày 29/12/06) và được giữ
cho đến cuối năm 2007 và đến hết tháng đầu năm 2008.
Năm 2008, một năm đánh giá sự thành công của chính sách tiền tệ thông qua điều
hành lãi suất tiền gửi, lãi suất cơ bản và lãi suất dự trữ bắt buộc đã giúp ngân hàng vượt qua
thời kỳ sóng gió.
Trang 7
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Hai quý đầu của năm 2008, cùng với sự bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình
hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao cùng với sụ dồn tích
khá lâu của luợng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá có hiện tượng “bốc hoả” về giá.
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, công cụ lãi suất được sử dụng cùng với các công cụ
khác đã tác động mạnh đến thị trường, và phản ứng của thị trường thật mạnh mẽ: các hoạt
động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở nên bất ổn, thị trường
vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá tăng vọt,…
Với mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về, theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày
30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ớ mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm,
chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến ngày 19/05/2008, lãi suất cơ
bản vọt lên 12%/năm. Và chưa đầy 1 tháng sau, theo quyết định 1317/QĐ-NHNN ngày
11/06/2008 NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm. Chiến dịch lãi
suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Chỉ trong vài ngày
mà lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/ năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đến 21%/năm.
Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) nữa
mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008, chỉ số lạm phát và chỉ số giá cả
có xu hướng giảm dần. Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một
loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: lãi suất
cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm (Quyết định số 3161/QĐ-NHNN ngày
22/12/2008). Mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Tháng
12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 12-13%/năm.
Những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã từng bước nới lỏng
chính sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động
của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. NHNN đã tiến hành chương
trình hỗ trợ lãi suất vay VND 4%/năm (trong chương trình hỗ trợ kinh tế của Chính phủ) đã
đưa lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và người dân xuống còn 5-6%/năm.
Tuy nhiên, cùng với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới,
càng về những tháng cuối năm, diễn biến thị trường tài chính-tiền tệ càng trở nên phức tạp,
áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Những tháng cuối năm 2009, tốc
độ tăng trưởng tín dụng luôn tăng cao hơn tốc độ huy động tiền gửi gây áp lực đến lãi suất
Trang 8
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
của thị trường. Do đó, việc nâng lãi suất cơ bản, tăng từ 7%/năm lên 8%/năm (áp dụng từ
1/12/2009), đã tạo ra sự ổn định, đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy luật cung-cầu, tránh
sức ép, tiêu cực cho hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
Nhận xét:
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của
các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của
các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng
tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán
và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín
hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng
trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm,
theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và
tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động
tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước
và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp
đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm
và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị
trường. Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng thương mại đối với
cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm
hạn chế rủi ro.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân hàng Nhà
nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp, phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường
theo hướng ổn định, được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công
cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông.
Trang 9
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách
khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài
nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính.
2 CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC
Lạm phát, vấn đề kinh tế đe dọa không từ bất cứ quốc gia nào, đây cũng là nỗi lo ngại
của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Để kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế, NHNN mỗi quốc
gia đều có những công cụ vận dụng trong tình hình kinh tế đất nước cụ thể. Trong đó có công
cụ trữ bắt buộc là một trong những công cụ tạo hiệu ứng nhanh và mạnh.
Trong điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát NHNN có thể gia tăng hay nới lỏng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc theo thực tế lạm phát trên thị trường, và đưa những dự báo về lạm phát
trong tương lai từ đó hạn chế hay gia tăng khả năng tạo tiền của các NHTM.
Tình hình thị trường tiền tệ từ năm 2004 đến năm 2009 với ảnh hưởng của chính sách
dự trữ bắt buộc có thể khái quát như sau:
NĂM 2004:
Trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm tăng cao (do giá dầu thô và
giá nguyên vật liệu thế giới tăng cộng với thiên tai dịch bệnh đã điều chỉnh giá cả một số mặt
hàng), lạm phát 6 tháng đầu năm vượt trên 7% để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần
tăng trưởng kinh tế, từ tháng 7/2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-
NHNN ngày 25/6/2004). Cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới
12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam tăng từ 1,5% lên 4%, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và Quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới
24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
Đồng thời, để khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng
lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VND, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi phương thức trả lãi đối
với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004).
Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VND, Ngân hàng Nhà nước chỉ trả lãi cho tiền
Trang 10
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
gửi dự trữ bắt buộc (1,2%/năm) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc
vượt.
NĂM 2005:
Từ kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc tháng 7-2004, Tỷ lệ dự trữ cao năm được duy trì
trong suốt cả năm 2005. Không có được con số thống kê chính xác tổng số tiền dự trữ bắt
buộc tăng thêm phải nộp về NHNN trong năm 2005 so với các năm trước, nhưng ước tính
cũng phải tới 6000-7000 tỷ đồng.Điều đó có nghĩa là, để góp phần thực hiện mục tiêu lạm
phát, hàng nghìn tỷ đồng đó được thu về “giam” trong kho, không được đầu tư cho nền kinh
tế.
NĂM 2006: Để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, duy trì ổn định tiền tệ và
góp phần phục vụ tăng trưởng kinh tế, NHNN đã giữ nguyên tỷ lệ DTBB.
NĂM 2007:
Quyết định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh (từ 5% lên 10%, riêng Agribank là 8%)
của Ngân hàng Nhà nước Động thái này được xét đến ở áp lực rút tiền trong lưu thông để
kiềm chế lạm phát có dấu hiệu tăng cao. Các ngân hàng đã ngồi lại với nhau để phản ứng về
quyết định này, bởi chi phí của mỗi thành viên có thể bị đội thêm 0,25% từ việc tăng dự trữ
bắt buộc
Thông thường, Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc khi tăng trưởng tín
dụng nóng. Nhưng thông tin từ các ngân hàng thương mại lại khá bất ngờ: Tăng trưởng tín
dụng hiện chưa đến mức quá nóng, thậm chí khá thấp, để có một tỷ lệ dự trữ tăng nhanh và
mạnh như vậy. 90% trong số đại diện các ngân hàng đưa ra ý kiến đều bức xúc về quyết
định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ở mức tăng quá nhanh và mạnh
Cụ thể, theo một lãnh đạo ngân hàng khối quốc doanh, tăng trưởng tín dụng 6 tháng
đầu năm của khối thương mại cổ phần cũng chỉ gần 20%; bình quân của 4 ngân hàng quốc
doanh lớn tính đến 20/6 cũng chỉ khoảng 12%, trong đó cao nhất như Ngân hàng Ngoại
thương cũng chỉ khoảng 18% (5 tháng đầu năm), thấp như Ngân hàng Công thương
(Incombank) chỉ khoảng 6,9%.
Yêu cầu chung của các ngân hàng là cần có một lộ trình và mức tăng dần, tránh
đột ngột và gây sốc. Đặc biệt, trước một chính sách tác động mạnh đến hoạt động các
ngân hàng, họ phải được góp tiếng nói của mình trước đó.
NĂM 2008 :
Trang 11
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Sáu tháng đầu năm 2008, lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng
khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không
muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặt khác kinh tế
Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực
phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa
đầu năm 2008. NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%
lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy
động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng. Vấn đề lạm phát
vào thời điểm đầu năm 2008 này đang là điểm nóng của kinh tế vĩ mô Việt nam. Việc NHNN đã
và đang cùng lúc thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ chống lạm phát thông qua sử dụng các công
cụ CSTT, trong đó có việc tăng và mở rộng diện đối tượng tiền gửi tại NHTM phải trích DTBB
vào thời điểm này tuy sẽ tác động gây khó khăn cho tiềm lực mở rộng tín dụng của các NHTM,
nhưng là rất cần thiết và kịp thời để góp phần quyết định trong các nỗ lực của Chính Phủ về chủ
trương kiểm soát lạm phát. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định 2133/QĐ-NHNN
về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng. Mức lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng từ 3,6%/năm được nâng
lên 5%/năm (Quyết định này thay thế Quyết định 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008), tức là tăng
thêm 1,4%/năm, kể từ ngày 1/10.
NĂM 2009:
Ngày 24/2 Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định số 378 điều chỉnh mức lãi suất cơ bản
VND, từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín
dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND. Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ
nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức
tín dụng. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng áp dụng cho mọi tổ chức
tín dụng là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngân hàng nhà nước VN cho biết,
mục đích của việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nêu trên nhằm ổn
định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có
điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc cho
vay đối với các dự án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ.
Trang 12
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Ngày 17/7, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc
bằng VND đối với tổ chức tín dụng. Với mức giảm 2,4%, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc chỉ
còn 1,2%/năm.Theo Quyết định số 1681/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) ký ngày 17/7, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín
dụng là 1,2%/năm và thời điểm bắt đầu áp dụng là từ ngày 1/8 tới.
Như vậy, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng đã
giảm từ mức 3,6%/năm (theo 174/QĐ-NHNN) xuống còn 1,2%/năm.
3 CÔNG CỤ CHO VAY TÁI CẤP VỐN
Năm 2004 không phải là năm của công cụ cho vay tái cấp vốn. Mãi đến năm 2005, để
mở rộng khả năng điều tiết tiền tệ của NHTW, NHNN đã sử dụng công cụ này để điều tiết thị
trường bằng cách ban hành Quyết định 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 về việc các
TCTD sử dụng một số loại trái phiếu trong giao dịch tái cấp vốn của NHNN. Theo đó,
danh mục giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch cầm cố, thấu chi và cho vay qua
đêm, giao dịch kỳ hạn trong chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở đã được mở rộng, bao
gồm các trái phiếu do Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu UBND Thành phố Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh phát hành. Trong năm 2005, các TCTD đã quan tâm hơn đến việc sử
dụng các công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu của NHNN. Các TCTD đã sử dụng triệt để
hơn hạn mức chiết khấu được phân bổ, tỷ lệ sử dụng hạn mức chiết khấu đã tăng từ 60% lên
80% tổng hạn mức chiết khấu được phân bổ. Đối với giao dịch tái cấp vốn trong năm 2005
doanh số giao dịch tăng 50% so với năm 2004.
Bước sang năm 2006, vốn khả dụng của các TCTD xét trên toàn hệ thống có xu hướng
dư thừa, nhưng tập trung chủ yếu ở một số NHTM Nhà nước. Trong khi đó, hoạt động thị
trường liên ngân hàng chưa thực sự thông suốt nên một số NHTM Cổ phần, chi nhánh NH
nước ngoài vẫn có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng. Do đó, NHNN đã tiếp tục sử dụng
công cụ tái cấp vốn dưới các hình thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá nhằm hỗ trợ
cho các NHTM Cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đảm bảo khả năng thanh
toán. Trong năm 2006, doanh số cho vay cầm cố giấy tờ có giá bằng khoảng 18,8% doanh số
cho vay cầm cố giấy tờ có giá năm 2005.
Năm 2007, với nhiệm vụ bình ổn thị trường tài chính, giữ vững tăng trưởng kinh tế, và
sự phát triển mạng lưới hàng loạt các ngân hàng thương mại. Cùng với việc hoàn thiện các
luật về thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đã mở rộng cửa cho các nguồn vốn
Trang 13
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
từ nước ngòai ồ ạt đổ vào thị trường Việt Nam. NHNN quyết định giữ nguyên lãi suất tái
cấp vốn là 6,50%/năm, lãi suất chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng là 4,5%/năm
(2517/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006) và duy trì đến hết tháng 02/2008.
Năm 2008, Và tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô ngày 29/02/08 NHNN nâng lãi suất tái cấp vốn 7.5%/năm, lãi
suất tái chiết khấu 6%/năm. Ngày 24/04/2008 NHNN quyết định tái cấp vốn dưới hình thức
cho vay có bảo đảm để trợ khả năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại một cách kịp
thời, trên cơ sở đề nghị của NHTM, điều kiện cung - cầu vốn thực tế và mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ, cơ chế tái cấp vốn hiện hành (CV 3764/NHNN-CSTT). Ngày 30/05/2008
NHNN quyết định tăng lãi suất tái cấp vốn 13%/năm, lãi suất tái chiết khấu 11%/năm
(1257/QĐ-NHNN). Và tiếp tục tăng lãi suất tái cấp vốn 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu
13%/năm (1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008)
NHNN thực hiện các quyết định giảm lãi suất tái cấp vốn xuống 14%/năm, lãi suất tái
chiết khấu giảm xuống 12%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đối với các ngân hàng giảm xuống 14%/năm (2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008). Ngày
03/11/2008 lãi suất tái cấp vốn giảm 13%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm xuống 11%/năm;
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm
13%/năm (2561/QĐ-NHNN ngày 23/11/2008).
Và đến Năm 2009, khi nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục, lãi suất cơ bản dần đi vào ổn
định NHNN đã ban hành các quyết định để phù hợp hơn với thị trường tài chính tiền tệ.
NHNN quyết định hạ lãi suất tái cấp vốn xuống 8%, lãi suất tái chiết khấu xuống 6%, lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng xuồng
8% (173/QĐ-NHNNN ngày 23/1/2009). Đến ngày 10/4/2009 lại tiếp tục giảm xuống lãi suất
tái cấp vốn xuống 7%, lãi suất tái chiết khấu xuống 5%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng xuồng 7% (837/QĐ-NHNN).
4 CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ:
Trang 14
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Theo đánh giá của các NHTM, nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành ngày càng
linh hoạt hơn, góp phần hạn chế những bất cập của thị trường và phát huy vai trò điều tiết
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đáng chú ý là sự gia tăng mạnh về số phiên giao
dịch, doanh số giao dịch, và xu hướng mua bán 2 chiều ngày càng thể hiện rõ.
Trong năm 2004, nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một
công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60
ngày. Tổng doanh số giao dịch của năm 2004 đạt có 123 phiên giao dịch được thực hiện với
khối lượng giao dịch 61.935,91 tỷ đồng. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên là 503,5
tỷ đồng/phiên. Tổng doanh số giao dịch năm 2004 đã tăng đáng kể so với những năm đầu,
gấp gần 16 lần năm 2001.
Để hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ,
từ 1/11/2004 Ngân hàng Nhà nước đã tăng định kỳ giao dịch các phiên nghiệp vụ thị trường
mở lên 3 phiên/tuần và đặc biệt trong các dịp giáp Tết, các phiên giao dịch thị trường mở
được tổ chức hàng ngày.
Từ 07/12/2004, việc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn phần mềm vận hành phần mềm
nghiệp vụ thị trường mở qua mạng tại thành viên và chi nhánh NHNN được uỷ quyền, qua
mạng tại sàn giao dịch (theo Công văn số 901&902/CV-THNH), áp dụng công nghệ thông
tin, mở qua mạng vi tính áp dụng công nghệ trang Web trong đặt thầu và đấu thầu đã tạo
thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí đầu tư ban đầu do không phải
cài đặt phần mềm).
Tiếp tục phát huy hiệu quả đạt được trong năm 2004, bước sang năm 2005, Ngân
hàng Nhà nước đã tiếp tục điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD thông qua
nghiệp vụ thị trường mở, nhất là trong dịp Tết nguyên đán. Năm 2005: có 159 phiên giao
dịch được thực hiện với khối lượng giao dịch 102.479,15 tỷ đồng. Tổng doanh số giao dịch
năm 2005 gấp hơn 1,65 lần năm 2004 và gấp 26 lần năm 2001. Như vậy, năm 2005 với số
lượng phiên giao dịch tăng 29,3% so với năm 2004, và doanh số đã tăng hơn 65% so với năm
2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng tăng bình quân từ 82 tỷ đồng/phiên (năm
2001) lên 644,5 tỷ đồng/phiên (năm 2005), cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (vào
thời điểm giáp Tết).
Trang 15
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Để điều tiết kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD, trong năm 2005, nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện theo định kỳ 3 phiên/tuần. Đặc biệt trong dịp giám tết âm lịch, 10
ngày cuối năm 2005, nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện trong tất cả các ngày làm việc.
Cá biệt, trong một số thời điểm khi nhu cầu hỗ trợ thanh khoản của các TCTD tăng cao,
NHNN đã thực hiện 2 phiên/ngày để hỗ trợ cho các TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, chi
trả, duy trì ổn định tiền tệ. Quy mô hoạt động được tiếp tục mở rộng, tăng cường khả năng
điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện thị trường tiền tệ.
Trong năm 2006, nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành một cách thận
trọng, linh hoạt thông qua thực hiện giao dịch theo cả 2 chiều (mua và bán) giấy tờ có giá
trên cơ sở bám sát diễn biến vốn khả dụng, diễn biến kinh tế và mục tiêu điều hành CSTT.
NHNN đã hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD, đáp ứng nhu cầu đảm bảo khả năng
thanh toán nhất là trong dịp Tết nguyên đán và dịp cuối năm 2006, góp phần duy trì ổn định
thị trường tiền tệ. Từ sau tết nguyên đán, vốn khả dụng của các TCTD có xu hướng dư thừa
do huy động vốn tăng và nguồn ngoại tệ nước ngoài vào Việt Nam nhiều, NHNN cung ứng
tiền mua ngoại tệ. Để điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD và thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán hẳn giấy tờ có giá với thời hạn ngắn.
Kết quả là năm 2006, có 162 phiên giao dịch được thực hiện với khối lượng giao dịch
124.234 tỷ đồng (với thời hạn ngắn 7 -56 ngày, phương thức đấu thầu lãi suất). Tổng doanh
số giao dịch năm 2006 gấp hơn 1,21 lần năm 2005 và gấp 2 lần năm 2004. Như vậy, năm
2006, tuy số lượng phiên giao dịch tăng không đáng kể so với năm 2005 nhưng doanh số đã
tăng khoảng 21% so với năm 2005 và tăng 100% so với năm 2004. Khối lượng giao dịch
bình quân một phiên là 767 tỷ đồng/phiên, tăng 19% so với năm 2005 và tăng hơn 52% so
với năm 2004.
Thời điểm gần cuối năm 2007, NHNN đã tăng cường hơn khối lượng chào bán trong
từng phiên, đa dạng hoá kỳ hạn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức đầu tư, các
tổ chức tín dụng; đồng thời tạo ra hành lang pháp lý trong quá trình giao dịch thị trường mở
hạn chế thấp nhất những rũi ro có thể xảy ra. Với mục tiêu góp phần kiểm soát lạm phát, ổn
định tiền tệ, NHNN liên tục chào bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để hút tiền từ lưu thông
về với việc tăng cường khối lượng chào bán trong từng phiên, tăng số phiên chào bán trong
tuần, đa dạng hóa kỳ hạn và xác định lãi suất chào bán ở mức hợp lý. Cụ thể tháng 08/2007
đối với tín phiếu NHNN đã bổ sung thêm 03 kỳ hạn dài hơn là 182 ngày (6 tháng), 273 ngày
Trang 16
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
(9 tháng), 364 ngày (12 tháng). Tháng 11/2007, tiếp tục tăng cường và đa dạng hóa các kỳ
hạn tín phiếu (28, 56, 84, 112 , 140, 182, 364 ngày). Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch chủ
yếu là các kỳ hạn dưới 6 tháng. Vi thế, cần phải đa dạng hoá các giao dịch khác nhau trong
một phiên giao dịch để các NHTM có điều kiện lựa chọn đấu thầu phù hợp với nhu cầu điều
tiết vốn khả dụng của mình.
Năm 2008, nghiệp vụ thị trường mở dần dần được hoàn thiện NHNN đã ban hành
quyết định 27/2008/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ
thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Và các phương thức mua và bán các giấy tờ có giá như:
giao dịch mua có kỳ hạn; giao dịch bán có kỳ hạn; giao dịch mua hẳn; giao dịch bán hẳn đều
được thực hiện trong một phiên giao dịch.
Theo đánh giá của NHNN, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục trở thành kênh chủ yếu
để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà
vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại với số lượng thành viên tham gia đặt thầu, số
phiên và khối lượng giao dịch đều tăng hơn trước.
5 CÔNG CỤ TỶ GIÁ
Sơ đồ tỷ giá USD/VND liên ngân hàng từ 2005-2010
Năm 2004: Ngân hàng Nhà nước đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên
thị trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn không để hoạt động nhập khẩu
gặp khó khăn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào
Trang 17
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng không ngừng hoàn thiện các
công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng
ngày càng tự do hoá để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông
thoáng về giao dịch hoán đổi.
Cùng với các giải pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, tỷ giá cũng được duy
trì ổn định (tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng tăng 0,84%). Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà
nước đã thực hiện tốt vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Thêm vào đó,
lượng kiều hối tăng mạnh hơn so với năm 2003 đã góp phần giữ được ổn định tỷ giá.
Năm 2005: điều hành tỷ giá (USD/VND) ổn định tương đối (tăng 0,86%), phù hợp
tình hình thực tế quan hệ cung - cầu (cung ngoại tệ lớn hơn về cầu ngoại tệ); tỷ giá trên thị
trường tự do và trên thị trường liên ngân hàng không có sự chênh lệch đáng kể, vị thế đối
ngoại của đồng Việt Nam tiếp tục được duy trì khi đặt tương quan trong mối quan hệ với các
đồng tiền chủ chốt trên thế giới như đồng Euro, Yên Nhật, Bảng Anh,... Việc ổn định tỷ giá
đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tạo lòng tin của người dân đối với VND, tránh được
sự dịch chuyển từ VND sang gửi ngoại tệ trong bối cảnh lạm phát cao. Đồng thời tạo tâm lý
thuận lợi, hướng nhìn nhận tốt về môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với nhà đầu tư nước
ngoài.
Trang 18
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Năm 2006: Ngân hàng nhà nước tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý,
thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô,
góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
dự trữ ngoại hối Nhà nước. So với thời điểm đầu năm, tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với Đôla Mỹ tăng 1,38%, tỷ giá mua bán ngoại tệ trên
thị trường tự do cũng luôn tăng, giảm theo biến động của tỷ giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng.
Năm 2007: để thực hiện cơ chế chính sách tiền tệ đồng thời kích thích xuất khẩu,
ngày 24/12/2007 Ngân hàng nhà nước đã quyết định nới rộng biên độ tỷ giá từ ±0,5% lên
±0,75% (tăng 0,25%). Trong năm này, Ngân hàng nhà nước đã ba lần thực hiện mở rộng biên
độ tỷ giá:
+ Ngày 1/7/2002: Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ +0,1% lên ±0,25%;
+ Ngày 31/12/2006: Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ ±0,25% lên ±0,5%; và
+ Ngày 24/12/2007, Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ ±0,5% lên mức ±0,75%.
Việc mở rộng biên độ trong tháng 12 nằm trong chủ trương chung là tạo điều kiện để nền
kinh tế Việt Nam ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Theo quy định trước đây thì các Ngân hàng thương mại chỉ được ấn định tỷ giá mua bán
giữa VND với USD trong biên độ ±0,5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân
hàng nhà nước thông báo, nay với biên độ ±0,75% các Ngân hàng thương mại sẽ có điều kiện
ấn định tỷ giá mua bán linh hoạt hơn sát với cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Cơ chế tỷ giá
ngày càng linh hoạt hơn sẽ đòi hỏi các Ngân hàng thương mại và thanh viên tham gia thị
trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá, để đảm bảo
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Năm 2008: Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000
và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2,
tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
Ngân hàng nhà nước đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08)
đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ,
tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại
Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Trang 19
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt
Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến
tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức gần bằng
18.000.
Năm 2009: Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần
điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% (quyết định
số 622/QĐ-NHNN ngày 23/03/2009) và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau
mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không
chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà
nước.
Tỷ giá USD/VND 2008 - 2009
Nguồn: Global Financial Data, Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của Trường Fulbright.
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán
những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
Nhận xét:
Chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà Nước, trong thời gian vẫn còn một số bất cập:
Thứ nhất, việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần
làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu. Điều
này được chứng minh bằng một thực tế là nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong
Trang 20
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007 và 17,5 tỷ
USD trong năm 2008. Dự kiến thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2009 cũng sẽ
vào khoảng 12-13 tỷ USD.
Thứ hai, nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất
khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm 2008; và cùng
với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân
thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng.
Điều này một mặt khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ
khoảng 23 tỷ USD vào cuối năm 2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt khác
khiến áp lực giảm giá VND tiếp tục được duy trì.
Trong bối cảnh này, chính sách tiền tệ nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung cần hết sức
thận trọng. Chính sách cần thiết trong giai đoạn sắp tới là thắt chặt chính sách tiền tệ. Một số
chính sách gần đây của Ngân hàng Nhà nước (giảm giá VND, tăng lãi suất qua đêm liên ngân
hàng và lãi suất cơ bản) vì vậy là một sự chuyển hướng đúng đắn.
Việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% cũng là một chính sách hợp lý vì bên cạnh tác động
thắt chặt tín dụng, nó còn khuyến khích các doanh nghiệp có USD chuyển một phần dự trữ
USD sang VND để đáp ứng các nhu cầu vốn lưu động, nhờ đó giảm áp lực cho thị trường
ngoại hối. Bên cạnh đó, việc tác động tới kỳ vọng của thị trường thông qua từng bước điều
chỉnh tỷ giá USD/VND sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cân đối lại cấu trúc
danh mục nắm giữ tiền của người dân và doanh nghiệp. Cuối cùng, việc lấy lại niềm tin cho
Ngân hàng Nhà nước, và nhờ đó lấy lại hiệu lực cho chính sách vĩ mô của chính phủ, là điều
mà chính phủ phải đạt được để có thể đưa nền kinh tế vượt qua những thách thức hiện nay.
Để làm được điều này, một thái độ thực sự cầu thị, một hệ thống chính sách đúng
đắn, nhất quán và một cơ chế giao tiếp thông tin chính xác, kịp thời với người dân, với thị
trường là những điều kiện tiên quyết.
6 CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG
Ngân hàng nhà nước mới công bố mức tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng
thương mại đến hết quý 3/2009 đạt 28%, sát ngưỡng mục tiêu năm 2009 là 30%. Mặc dù dư
nợ tín dụng đã tăng khá cao, tuy nhiên, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
Ngân hàng nhà nước sẽ không điều chỉnh lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhưng cũng
sẽ không cung ứng thêm tiền vào lưu thông
Trang 21
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Dù không đưa ra hạn mức tín dụng cho vay tiêu dùng, nhưng những chỉ đạo của Ngân hàng
nhà nước luôn khá chặt chẽ với tín dụng tiêu dùng. Điều này là đúng nếu xét trên khía cạnh
tiềm ẩn rủi ro khi các Ngân hàng thương mại không kiểm soát chặt mục đích sử dụng tiền
vay của khách hàng.
Tuy nhiên, cho vay tiêu dùng mới làm tăng sức cầu của xã hội. Trong giai đoạn vừa
qua, khi Chính phủ thực hiện chính sách kích cầu, hỗ trợ lãi suất... thì tác động trước tiên là
đến lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hoá, như thế cung được kích thích trước. Tuy nhiên
sản xuất vẫn là để tiêu thụ và cầu tiêu thụ sẽ được gia tăng nếu xã hội có thêm tiền từ vay
ngân hàng để chi tiêu.
Việc giảm cho vay tiêu dùng cũng đồng nghĩa làm giảm sức cầu của xã hội là một việc
không nên làm.
Về quản lý nhà nước, nếu Ngân hàng nhà nước dùng các biện pháp kỹ thuật để giới
hạn tín dụng tiêu dùng tăng trưởng cũng đồng nghĩa là can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng thương mại. Còn nếu sợ các Ngân hàng thương mại buông lỏng kiểm
soát chặt chẽ cho vay tiêu dùng để dòng tiền vay bổ sung vào dòng vốn đầu cơ trên thị trường
chứng khoán, vàng, bất động sản làm các thị trường này phát sinh tình trạng "bong bóng" gây
tác hại cho nền kinh tế thì nên áp dụng các biện pháp như: Buộc việc cho vay tiêu dùng phải
có hợp đồng mua bán (ví dụ mua bán nhà đất), có hóa đơn tài chính, có đóng thuế/hay có
giấy tờ chứng minh nhu cầu vay là thật.
Ngoài ra đối với Ngân hàng thương mại cho vay, Ngân hàng nhà nước thông qua số
liệu giám sát từ xa hay qua công tác thanh tra tại chỗ nếu thấy tình trạng cho vay tiêu dùng
không chặt chẽ, không phục vụ cho mục đích tiêu dùng thì Ngân hàng nhà nước vẫn có thể
khuyến cáo trực tiếp bằng văn bản hay xử phạt hành chính.
Việc gia tăng tín dụng tiêu dùng còn làm cho Ngân hàng thương mại xử lý hiệu quả
được phần nào đầu ra của nguồn vốn huy động với lãi suất cao, không gây áp lực khiến Ngân
hàng nhà nước phải tăng lãi suất cơ bản, giúp cho nguồn vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh
doanh vẫn ở mức như hiện nay trong một khoảng thời gian dài, không ảnh hưởng đến chính
sách kích cầu mà Chính phủ đang thực hiện.
III/ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ NHỮNG NĂM QUA:
1 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:
Trang 22
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ:
− Đây là thành tựu đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, những
quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong việc điều hành lãi suất, tỷ giá…NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một bàn tay hữu hiệu
đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn
định, đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
− Cuối năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế đã tác động tiêu cực đến nền kinh
tế Việt Nam, áp lực giảm phát bắt đầu xuất hiện, kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh và GDP
đạt thấp. Để phục hồi kinh tế, chủ động ngăn ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống
ngân hàng, NHNN đã thực hiện CSTT nới lỏng theo hướng giảm các mức lãi suất chủ đạo
(lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu), đồng thời điều chỉnh giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với VND nhằm giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tăng cường nguồn vốn
huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Theo đó, lãi suất cơ bản giảm
từ 14% xuống còn 13%/năm kể từ ngày 21/10/2008 và ngày 05/12/2008 chỉ còn 10%, lãi suất
tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 14% kể từ ngày 21/10/2008 và xuống
11%/năm kể từ ngày 05/12/2008.
− Mặt khác, nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về
những giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, đặc biệt là gói kích cầu qua hình thức hỗ trợ lãi
suất 4%, từ tháng 2/2009 NHNN đã tiếp tục điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất với lãi suất cơ
bản giảm xuống còn 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu còn
5%/năm. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được điều chỉnh giảm.
− Ngoài ra, NHNN cũng điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu chào
mua tờ có giá với kỳ hạn và lãi suất hợp lý nhằm đưa tiền ra lưu thông; điều chỉnh tăng biên
độ tỷ giá giữa VND và USD, chấn chỉnh hoạt động mua bán, thu đổi ngoại tệ.
− Tuy nhiên, từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế,
NHNN đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống còn ± 3 kể ngày 26/11/2009, đồng
thời điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 tăng thêm
5,4% so với ngày 25/11/2009; lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng
được điều chỉnh tăng thêm 1% kể từ tháng 12/2009.
Trang 23
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
− Kết thúc năm 2009, tổng mức tín dụng tăng 37,73%, nguồn vốn huy động vốn tại các
tổ chức tín dụng tăng 28,7%, tổng phương tiện thanh toán tăng 28,67%, lạm phát được kiềm
chế ở mức 6,88%.
Tóm lại, trong năm 2009, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt
và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế, góp phần duy trì các chỉ số
tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở mức hợp lý.
Góp phần tăng trưởng kinh tế:
− Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi
trường đầu tư lành mạnh, thu hút được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt
việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc... của NHNN ở các giai đoạn
cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu
quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
liên tục qua các năm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) ở Việt Nam từ 2004 đến nay
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 dự báo 2010
GDP
(%) 7,79 8,44 8.23 8,48 6,23 5,32 6,5 - 7
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt Nam đã
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Có được kết quả trên còn phải kể đến vai trò của
nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt
được mức năng suất biên của sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
2 HẠN CHẾ:
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các giải pháp tiền tệ đã bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể
như:
− Trong chương trình hỗ trợ lãi suất ngắn hạn 4%, việc phối hợp giữa các Bộ, ngành
trong việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa tốt, xử lý các vướng mắc
còn chậm nên kết quả đạt thấp.
− Việc nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất cũng đã
khiến tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng tăng cao, ảnh hưởng đến việc kiềm chế
lạm phát năm 2009 và có thể sẽ bị kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của chính sách tiền tệ.
Trang 24
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
− Cấp quản lý của NHNN cũng chưa nhanh nhạy thực hiện các giải pháp nhằm ngăn
ngừa tình trạng mất cân đối cung- cầu ngoại tệ ở một số thời điểm căng thẳng, đồng thời
chưa có biện pháp xử lý kịp thời, mạnh tay đối với những tin đồn thất thiệt trên thị trường
ngoại hối.
− Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động
ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ
bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách
hàng có nguồn tiền gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa
có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại,
tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh
nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn
còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt
19,6%, nếu so với 30% - giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt
động tín dụng mới chỉ “đi được” 2/3 “quãng đường”. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt
động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Đây là dư âm
và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 và tác động của các
công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng, thể hiện qua mặt trái của việc vận hành các công
cụ chính sách tiền tệ:
o Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay - một khó khăn của các NHTM. Mặc dù hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt động tín dụng hiện vẫn
là nguồn thu chủ yếu của các NHTM Việt Nam, song hoàn toàn không phải vì thế
mà các ngân hàng muốn nâng lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay cả trong điều kiện
mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình thường thì việc nâng lãi suất cũng sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng tốt sẽ bỏ đi, khách hàng
xấu thì ở lại. Còn trong điều kiện lạm phát cao, việc tăng lãi suất cho vay cũng là
điều dễ hiểu - vốn dĩ lãi suất cũng là một loại giá, mặt bằng giá cả tăng, thì lãi suất
huy động vốn tăng, và vì thế, lãi suất cho vay cũng tăng theo.
o Tuy nhiên, lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả
mà nguyên nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng
trong nền kinh tế, mà trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình
thông qua các công chính sách tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián
Trang 25
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở
nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là
nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt buộc... trên cơ sở đó, ngân hàng
phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu không có lời thì cũng
phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được phát ra từ
NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc
trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải
thắt chặt tín dụng.
o Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm - cũng là một hệ lụy do
việc vận dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Nếu như quá trình tạo
tiền của các ngân hàng được thực hiện trong khi các ngân hàng tiến hành các hoạt
động kinh doanh thì chính quá trình đó lại là bằng chứng về mối liên hệ gắn bó,
không thể tách rời giữa các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Mỗi ngân hàng
có thể có mục tiêu riêng, có chiến lược hoạt động riêng, có thương hiệu riêng...
cùng với nhiều điểm khác biệt. Song, trong quá trình tạo tiền thì tất cả đều giống
như đang cùng di chuyển trên một con thuyền. Chính vì vậy, trong hoạt động
ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để
cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nếu
không tương tác hỗ trợ thì có thể gây ra khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật
khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu hiểu sự ràng buộc đó, song có
những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng
phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn trương cả về
thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí
vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Tiền huy động về đã cho vay rồi - cho
vay thì luôn luôn có thời hạn, kể cả đến hạn trả nợ thì việc đòi nợ lại khó khăn.
Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch chiến lược thanh khoản cho từng giờ - làm
sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép
nhau... Ngay trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử
với nhau như không phải họ đang trong cùng một trận tuyến chống lạm phát - lãi
suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm - một con số không thể
ngờ tới.
Trang 26
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
o Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả
nguyên vật liệu tăng vọt... là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong
hoàn cảnh đó, rõ ràng các dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường,
các dự án mới không thể bắt đầu được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không
thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi
phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền kinh tế: lúc giá cả lên cao
- chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống - sản phẩm làm ra không
thể bán giá cao… Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì trả được
- nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ... có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro
tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu
quả ngược lại cho ngân hàng.
IV/ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1 ĐỊNH HƯỚNG
1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2010
Về tốc độ tăng trưởng GDP: Theo đánh giá sơ bộ của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ phục
hồi và tăng 3,1% năm 2010 sau khi giảm 1,1% năm 2009, chủ yếu nhờ các nền kinh tế châu
Á với mức tăng trưởng GDP thực đạt gần 5% sau khi tăng 1,75% trong năm 2009, những nền
kinh tế mới nổi khác có tốc độ phục hồi khiêm tốn. Các nước phát triển chỉ tăng 1,25% sau
khi giảm 3,5% trong năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp còn cao cho đến cuối năm. Trên toàn cầu,
tốc độ phục hồi nhìn chung rất chậm và hoạt động kinh tế vẫn còn kém xa thời điểm trước
khủng hoảng, nhiều nhà đầu tư còn bị ám ảnh bởi đại suy thoái 1929-1933 và những tổn thất
vừa qua.
Nhìn chung, kinh tế toàn cầu còn mong manh và dễ bị tổn thương trước các cú sốc, kể
cả khả năng tăng giá dầu, sự tái diễn của cúm H1N1 và các sự kiện chính trị. Ngoài ra là rủi
ro trung hạn, chủ yếu tại các nước phát triển với mức thâm hụt ngân sách khá cao. Trên toàn
cầu, tăng trưởng bền vững trong thời kỳ trung hạn sẽ phụ thuộc lớn vào khả năng ổn định
nguồn cung và tái cân bằng nhu cầu.
Kinh tế thế giới năm 2010 tiếp tục phục hồi, nhưng rủi ro còn lớn do việc cắt giảm
các khoản hỗ trợ để giảm thâm hụt ngân sách còn gặp khó khăn, trong khi chính phủ muốn
Trang 27
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
nhanh chóng khôi phục sản xuất, nhiều nhà đầu tư còn gặp khó khăn và dè dặt trong việc trở
lại hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm và thu nhập.
Bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010
Trong những tháng đầu năm 2010, nền kinh tế phải đối diện với nhiều thách thức lớn:
Lạm phát gia tăng, tỷ giá leo thang, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn,
doanh nghiệp tăng chi phí vốn. Tuy nhiên, phần lớn những khó khăn này chỉ mang tính tạm
thời và kỳ vọng có thể sớm giải quyết vẫn đề trong ngắn hạn. Để ổn định được KTVM thì
Chính phủ phải điều hành theo hướng cân bằng được hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
kiềm chế lạm phát, đi đôi với giảm thâm hụt ngân sách và chênh lệch cán cân thanh toán.
Theo chu kỳ kinh tế 10 năm (1990-1999 và 2000-2009), thì năm 2010 sẽ là năm hồi
phục của nền kinh tế Việt Nam từ mức đáy 2009. Xu hướng tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng
nội địa và nhu cầu nhập khẩu của nước ngoài khi kinh tế thế giới dần phục hồi sẽ kích thích
các nhà sản xuất trong nước mạnh tay trong việc đầu tư máy móc thiết bị phục vụ SXKD,
chuyển hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu nội địa và phát triển thêm các thị trường mới..
Theo dự kiến của một số chuyên gia thì kinh tế vĩ mô năm 2010 sẽ đạt những kết quả
tốt hơn năm 2009. Tốc độ tăng trưởng GDP sẽ ở khoảng 6,5%, cao hơn mức 5,32% của năm
2009; kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trở lại khoảng 6% thay vì đã âm tới 10% trong năm 2009;
CPI tiếp tục được giữ ở mức dưới 7%; nhập siêu sẽ giảm...
Trang 28
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Để đạt được những kết quả dự kiến trên, Chính phủ đang tiếp tục duy trì chính sách
tiền tệ ổn định trong năm tới. Giá trị VND sẽ giữ ổn định nhưng vẫn phải điều chỉnh linh
hoạt theo tỷ giá đồng USD nhằm kích thích xuất khẩu, vừa giảm nhập siêu và giữ thăng bằng
cán cân tổng thể.
1.2 Một số định hướng cơ bản:
− Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập với thông lệ quốc
tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước .
− Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử dụng các công
cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn.
− Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn đó là
thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để
đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .
Trong năm 2010, định hướng. mục tiêu và các giải pháp lớn về điều hành chính sách
tiền tệ của NHNN năm 2010 là: Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt
và thận trọng nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm khả năng thanh khoản của hệ thống
ngân hàng, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng và áp dụng lãi
suất, tỷ giá ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến tình hình, đáp ứng yêu cầu kích thích tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại.
Để đạt được mục tiêu này, NHNN sẽ triển khai các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm
như điều hành các công cụ tiền tệ, tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ
với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác; mở rộng tín
dụng phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất
để tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững; tăng cường khả năng phát hiện, cảnh báo
sớm rủi ro hoạt động ngân hàng...
2 GIẢI PHÁP :
Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có
nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song
trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế... Vấn đề này
cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn - điều kiện
đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận
Trang 29
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến
hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện
mà lạm phát đang được kiểm soát, nhưng giảm phát và suy thoái kinh tế - nỗi lo chung của
xã hội, lại đang có dấu hiệu xuất hiện: thị trường bất động sản tuy có dấu hiệu rục rịch nhưng
vẫn trong tình trạng đóng băng, thị trường chứng khoán đang trong giai đọan cố gắng nhưng
vẫn “trồi” “sụt” bất thường, thị trường hàng hóa cũng trong tình trạng suy giảm (cung cầu
đều khó khăn, giá cả thì đảo chiều)… Để giảm bớt những tác động trái chiều của chính sách
tiền tệ cần lưu ý một số vấn đề sau:
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi
− Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh
thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần được độc lập với chính sách
tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà
nước.
− Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và phát triển
để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất
để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
− Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ thống NH để
đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
− Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập ,xử lý
thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
− Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ chế thực thi
CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
− Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới
trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của CSTT
có hiệu quả hơn
2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn
thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn Việt Nam -phục vụ đắc lực
cho quá trình đổi mới CSTT. Hệ thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ
thể:
Trang 30
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
• Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHNN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần phải theo
dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt
động này trong điều kiện cụ thể.
• Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi
ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa
các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ
chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp;sự
biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị
trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn
cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền
kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất
ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý ,từng
bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất Việt Nam .
Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín
hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh
hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn
về thanh khoản của các NHTM.
• Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
- Nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra
phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các
tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc,
đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế dự trữ để đảm bảo sự lành
mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT
Trang 31
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự
trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho
số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính
NHNN.
- Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần
phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy
động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế.
- Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã phát triển, các công cụ
khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nước nên có
dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ được linh động, mạnh dạn hơn
trong hoạt động kinh doanh của mình .
• Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
- Cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín dụng
thương mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm bảo ,trước mắt đó là việc xúc
tiến các hoạt động để đưa pháp lệnh thương phiếu (hiệu lực từ 1/7/2000) đi vào thực tiễn.
- NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái
cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh mức
cung tiền .
- Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng
đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN và
đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để NHNN có cơ sở
chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối
với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Mặt khác ,cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất
thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián
tiếp điều tiết lãi suất thị trường một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế
• Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ hữu hiệu ,linh
hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
Trang 32
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến lạm phát
lãi suất ,đầu tư…để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trường mở như thế
nào (mua bán tín phiếu) ,với lượng là bao nhiêu.
- NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị trường mở
và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
- Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý phát hành
tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các
loại chứng chỉ tiền gửi…Muốn vậy NHNN phải nắm được ( quản lý) được các hoạt động này
đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở.
- Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trường
mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ.
- Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị
trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường thứ cấp.
Tóm lại, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân hàng
và thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế là những hoạt động thường ngày, tuy nhiên để
vận hành các công cụ này một cách có hiệu quả thì một mặt phải tuân thủ những nguyên tắc
nhất định song mặt khác lại không thể rập khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt
và nhạy bén.
Trang 33
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ... .. 1
1.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:... .. 1
1.1. Khái niệm:... .. 1
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ: ... ... 1
2.CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:... 0.1
2.1 Lãi suất: ... ... 1
2.2 Dự trữ bắt buộc:... .. 2
2.3 Cho vay tái cấp vốn: ... 0.3
2.4 Nghiệp vụ thị trường mở:... .. 3
2.5 Tỷ giá hối đoái:... 0.4
2.6 Hạn mức tín dụng:... 0.5
II/ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2004 - 2009: ... 0.5
1 CÔNG CỤ LÃI SUẤT... 0.5
2 CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC ... 0.10
3 CÔNG CỤ CHO VAY TÁI CẤP VỐN ... .. 13
4 CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ:... ... 14
5 CÔNG CỤ TỶ GIÁ ... ... 17
6 CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG ... 0.21
III/ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ NHỮNG NĂM QUA: ... ... 22
1 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:... 0.22
2 HẠN CHẾ:... .. 24
IV/ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM... 0.27
1 ĐỊNH HƯỚNG... 0.27
1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế ... .. 27
Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2010 ... .. 27
2 GIẢI PHÁP :... .. 29
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi... .. 30
2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ . .. .. 30
Trang 34
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)