ĐÊM TRĂNG(the moon night)
HELLO AND HI (*_^)
Thứ Năm, 31 tháng 5, 2012
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ.
1.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
1.1. Khái niệm:
Chính sách tiền tệ là tổng hòa những phương thức mà NHTW thông qua các hoạt
động của mình tác động đến khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm phục vụ cho việc thực
hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội của đất nước trong một thời kỳ nhất định.
Chính sách tiền tệ của 1 quốc gia về cơ bản có 2 loại:
− Chính sách mở rộng tiền tệ: Còn được gọi là chính sách nới lỏng tiền tệ.
Chính sách này được áp dụng trong điều kiện nền kinh tế bị suy thoái, nạn thất
nghiệp gia tăng. Chính sách mở rộng tiền tệ đồng nghĩa với chính sách tiền tệ
chống suy thoái.
− Chính sách thắt chặt tiền tệ: Còn được gọi là chính sách đóng băng tiền tệ.
Loại chính sách này được áp dụng khi nền kinh tế có sự phát triển thái quá,
đồng thời lạm phát ngày càng gia tăng. Chính sách thắt chặt tiền tệ đồng nghĩa
với chính sách tiền tệ chống lạm phát.
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ:
Trong hệ thống các công cụ điều tiết vĩ mô thì chính sách tiền tệ có vai trò khá quan
trọng, tác động trực tiếp vào lĩnh vực lưu thông tiền tệ. Ngoài ra nó còn có mối quan hệ chặt
chẽ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác: chính sách tài khóa, thu nhập, kinh tế đối ngoại.
Tùy từng giai đoạn cụ thể mà có thể thực thi chính sách tiền tệ theo hai hướng:
− Chính sách mở rộng tiền tệ: tăng cung tiền, giảm lãi suất, thúc đẩy sản xuất
kinh doanh, giảm thất nghiệp nhưng làm tăng tỷ lệ lạm phát
− Chính sách thắt chắt chặt tiền tệ: giảm cung tiền, tăng lãi suất làm giảm lạm
phát nhưng làm tăng tỷ lệ thất nghiệp.
2.CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:
Công cụ chính sách tiền tệ là các hoạt động được thực hiện bởi NHTW nhằm ảnh
hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến khối lượng tiền trong lưu thông và lãi suất thị trường, để
từ đó đạt được các mục tiêu của chính sách tiền tệ.
Gồm các công cụ chính sau:
2.1 Lãi suất:
Trang 1
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Được xem là công cụ gián tiếp trong thực hiện chính sách tiền tệ bởi vì sự thay đổi lãi
suất không trực tiếp làm tăng thêm hay giảm bớt lượng tiền trong lưu thông, mà có thể làm
kích thích hay kìm hãm sản xuất. Cơ chế điều hành lãi suất được hiểu là tổng thể những chủ
trương chính sách và giải pháp cụ thể của Ngân hàng Trung ương nhằm điều tiết lãi suất trên
thị trường tiền tệ, tín dụng trong từng thời kỳ nhất định.
Bằng cách đưa ra một khung lãi suất hay một trần lãi suất cho vay để hướng các
NHTM điều chỉnh lãi suất theo giới hạn đó, từ đó ảnh hưởng đến quy mô tín dụng của nền
kinh tế, NHTW có thể đạt được mức quản lý cung tiền theo ý muốn. Nếu tăng lãi suất tín
dụng sẽ thu hẹp quy mô tiền tệ và ngược lại.
Chẳng hạn, muốn sử dụng công cụ này NHTW sẽ quy định:
Lãi suất tiền gửi và lãi suất cho vay theo từng kỳ hạn
Sàn lãi suất tiền gửi và trần lãi suất cho vay để tạo nên khung lãi suất giới hạn
Công bố lãi suất cơ bản cộng với biên độ giao dịch
Ưu điểm: Giúp NHTW thực hiện quản lý lượng tiền cung ứng theo mục tiêu của từng thời
kỳ.
Nhược điểm:
- Dễ làm mất đi khách quan của lãi suất trong nền kinh tế vì lãi suất là giá cả
của vốn, do đó nó phải được hình thành từ chính quan hệ cung - cầu về vốn
trong nền kinh tế.
- Là một công cụ cứng nhắc, dễ gây tác động xấu tới hoạt động tiết kiệm và đầu
tư.
2.2 Dự trữ bắt buộc:
Là tỷ lệ giữa số tiền mà các NHTM phải giữ lại do NHTW quy định, được gửi tại
NHTW (một phần được giữ lại dưới dạng tiền mặt tại NHTM), không được dùng để đầu tư
cho vay trên tổng số tiền gửi huy động. Nhằm đảm bảo khả năng thanh toán và sự ổn định
của hệ thống ngân hàng.
Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc ảnh hưởng trực tiếp đến cơ chế tạo tiền của các
NHTM. Khi tăng (hay giảm tỷ lệ) này thì khả năng cho vay của các NHTM sẽ giảm (hoặc
tăng) theo, làm lãi suất cho vay tăng ( giảm), lượng tiền cung ứng giảm (tăng) theo.
Ưu điểm:
Trang 2
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- Có thể tác động đến tất cả các ngân hàng như nhau và tác động một cách đầy quyền
lực.
- Một sự thay đổi nhỏ của tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ tạo ra tác động rất lớn đối với khối tiền
tệ.
Nhược điểm:
- Khó có thể thực hiện được nếu sử dụng công cụ này khi muốn thay đổi cung tiền tệ ở
biên độ nhỏ.
- Việc thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ ảnh hưởng tới khả năng thu doanh lợi của các
Ngân hàng thương mại.
- Thường xuyên thay đổi tỷ lệ dự trữ bắt buộc sẽ gây ra tình trạng không ổn định cho các
Ngân hàng thương mại và làm cho việc quản lý khả năng thanh khoản của các ngân
hàng này khó khăn hơn.
2.3 Cho vay tái cấp vốn:
NHTW thường cho các NHTG vay dưới hình thức chiết khấu lại các giấy tờ có giá
ngắn hạn (chủ yếu là tín phiếu kho bạc và thương phiếu) do các NHTG đưa đến, bởi vậy
chính sách cho vay của NHTW đối với các NHTG được gọi là chính sách tái chiết khấu.
Những thay đổi trong chính sách tái chiết khấu của NHTW sẽ tác động đến khối lượng vay
chiết khấu (DL) của các NHTG, từ đó ảnh hưởng tới lượng tiền cung ứng.
Ưu điểm: các khoản cho vay của NHTW đều được đảm bảo bằng các giấy tờ có
giá. Do đó các khoản cho vay sẽ chắc chắn được thu hồi khi đến hạn.
Nhược điểm:
- Tác dụng của chính sách chỉ có thể phát huy khi các NHTG có nhu cầu vay từ
NHTW. Với sự phát triển của thị trường tài chính, các NHTG có thể tìm kiếm được
các nguồn vay khác ngoài NHTW làm cho sự phụ thuộc của chúng vào NHTW
giảm đi, do đó làm giảm mức độ phát huy hiệu quả của công cụ này.
- NHTW khó kiểm soát được hoàn toàn những tác động của công cụ này bởi
NHTW chỉ có thể thay đổi mức lãi suất tái chiết khấu và các điều kiện chiết khấu
mà không thể bắt các NHTG vay từ mình.
2.4 Nghiệp vụ thị trường mở:
Là hoạt động Ngân hàng Trung ương mua bán giấy tờ có giá ngắn hạn trên thị trường
tiền tệ, điều hòa cung cầu về giấy tờ có giá, gây ảnh hưởng đến khối lượng dự trữ của các
Trang 3
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Ngân hàng thương mại, từ đó tác động đến khả năng cung ứng tín dụng của các Ngân hàng
thương mại dẫn đến làm tăng hay giảm khối lượng tiền tệ.
Cơ chế tác động: Khi NHTW mua ( bán ) chứng khoán làm cho cơ số tiền tệ tăng
lên ( giảm đi), dẫn đến mức cung tiền tăng lên ( giảm đi) làm thay đổi lượng
tiền dự trữ của các NHTM, lương tiền mặt trong lưu thông.
Ưu điểm:
- NHTW có thể chủ động tiến hành mà không phải phụ thuộc vào nhu cầu của các
NHTG
- Tương đối linh hoạt và chính xác, có thể được sử dụng ở bất kỳ mức độ nào
- Dễ dàng đảo ngược lại khi có sai lầm xảy ra trong lúc tiến hành
- Có thể được hoàn thành nhanh chóng, không gây nên những chậm trễ về mặt hành
chính
Nhược điểm: công cụ này chỉ phát huy hiệu quả khi có sự phát triển cao của cơ
chế thanh toán không dùng tiền mặt và có một thị trường tài chính phát triển.
2.5 Tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là tương quan sức mua giữa đồng nội tệ và đồng ngoại tệ. Nó vừa
phản ánh sức mua của đồng nội tệ, vừa là biểu hiên quan hệ cung cầu ngoại hối. Tỷ giá hối
đoái là công cụ, là đòn bẩy điều tiết cung cầu ngoại tệ, tác động mạnh đến xuất nhập khẩu và
hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Sự can thiệp nhằm tác động tới tỷ giá hối đoái
được thực hiện thông qua các hoạt động mua vào hoặc bán ra ngoại tệ của NHTW trên thị
trường ngoại hối. Mức độ can thiệp của NHTW vào sự hình thành tỷ giá hối đoái trên thị
trường phụ thuộc vào chế độ tỷ giá hối đoái mà quốc gia đó áp dụng.
Có ba chế độ tỷ giá hối đoái mà các nước đã và đang áp dụng:
− Chế độ tỷ giá cố định: NHTW mua vào hay bán ra đồng nội tệ nhằm giới hạn sự
biến động của tỷ giá trong biên độ đã định. Chế độ tỷ giá này giảm bớt rủi ro của
việc chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác do tỷ giá được cố định. Tuy
nhiên ngày nay nó ít được các nước sử dụng do gây ra vấn đề phụ thuộc của
CSTT vào các biến động của bên ngoài ,hơn nữa,để tiến hành can thiệp trên thị
trường ngoại hối đòi hỏi NHTW phải có sẵn nguồn dự trữ ngoại hối dồi dào.
− Chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn: tỷ giá được xác định hoàn toàn tự do theo quy
luật cung cầu trên thị trường ngoại hối mà không có bất cứ sự canthiệp nào của
Trang 4
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
NHTW. Chế độ tỷ giá này được đánh giá là giúp cho CSTT quốc gia được độc
lập, ít chịu ảnh hưởng của những biến động từ bên ngoài . Tuy vậy, chế độ tỷ giá
này lại gây ra sự biến động thường xuyên của tỷ giá hối đoái, khiến cho các hoạt
động chuyển đổi từ đồng tiền này sang đồng tiền khác luôn hàm chứa rủi ro.
− Chế độ tỷ giá thả nổi có điều tiết: NHTW tiến hành can thiệp trên thị trường
ngoại hối nhằm ảnh hưởng lên tỷ giá, nhưng NHTW không cam kết duy trì một tỷ
giá cố định hay biên độ dao động nào xung quanh tỷ giá trung tâm.
2.6 Hạn mức tín dụng:
Là 1 công cụ can thiệp trực tiếp mang tính hành chính của Ngân hàng Trung ương để
khống chế mức tăng khối lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng. Hạn mức tín dụng là mức
dư nợ tối đa mà Ngân hàng Trung ương buộc các Ngân hàng thương mại phải chấp hành khi
cấp tín dụng cho nền kinh tế.
Ưu điểm: giúp NHTW điều chỉnh, kiểm soát được lượng tiền cung ứng đặc biệt là
trong giai đoạn phát triển quá nóng, tỷ lệ lạm phát quá cao của nền kinh tế.
Nhược điểm:
- Bản thân công cụ này đã mang tính chất hành chính và thiếu linh hoạt
- Thiếu căn cứ trong xác định hạn mức tín dụng và sự lỏng lẻo của các chế tài
trong việc quản lý hạn mức này
- Giảm tính cạnh tranh giữa các NHTM.
II/ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2004 - 2009:
1 CÔNG CỤ LÃI SUẤT
Các văn bản pháp luật liên quan đến điều chỉnh lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam trong giai đọan năm 2004 - 2009:
Trang 5
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
STT Số văn bản Ngày hiệu lực Lãi suất cơ bản (%/năm)
1 2665/QĐ-NHNN 01/12/2009 8
2 172/QĐ-NHNN 01/02/2009 7
1 3161QĐ-NHNN 22/12/2008 8.5
2 2948/QĐ-NHNN 05/12/2008 10
3 2809/QĐ-NHNN 21/11/2008 11
4 2559/QĐ-NHNN 05/11/2008 12
5 2316/QĐ-NHNN 21/10/2008 13
6 1434/QĐ-NHNN 01/07/2008 14
7 1099/QĐ-NHNN 19/05/2008 12
8 305/QĐ-NHNN 01/02/2008 8.75
1 1746/QĐ-NHNN 01/12/2005 8.25
2 93/QĐ-NHNN 01/02/2005 7.8
1 210/QĐ-NHNN 01/03/2004 7.5
BIẾN ĐỘNG LÃI SUẤT CƠ BẢN GIAI ĐOẠN 2004 - 2009
%/năm
16
14
12 13 12
12 11
10
7.8 8.25 8.75 8.5
8 7.5 7 8
4
0
Năm 2004, trước diễn biến chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng mạnh trong
những tháng đầu năm, trong khi mục tiêu tăng trưởng kinh tế đặt ra ở mức cao 7,5 - 8%, thị
trường vốn chưa thực sự phát triển, tín dụng ngân hàng vẫn đóng vai trò chủ yếu trong việc
đáp ứng vốn cho tăng trưởng kinh tế. Từ tháng 03/2004, Ngân hàng nhà nước đã kịp thời
điều chỉnh mục tiêu điều hành chính sách tiền tệ theo hướng thận trọng hơn nhằm ổn định
tiền tệ, ổn định lãi suất, ổn định tỷ giá góp phần kiểm soát lạm phát, hỗ trợ tăng trưởng
kinh tế. Để đạt mục tiêu trên, Ngân hàng Nhà nước vẫn giữ nguyên lãi suất cơ bản ở mức
7,5%/năm, lãi suất tái cấp vốn 5%/năm, lãi suất tái chiết khấu 3%/năm.
Trang 6
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Năm 2005, trước sức ép của chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng liên tục ở mức
khá cao và mục tiêu tăng trưởng kinh tế cao, các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ trong
năm 2005 đã chuyển mạnh sang các giải pháp thị trường, điều hành bám sát quy luật thị
trường và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, góp phần vào ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy
tăng trưởng kinh tế. Ngân hàng nhà nước điều hành chính sách lãi suất linh hoạt trên cơ sở
phân tích diễn biến lãi suất tiền tệ, lạm phát trong nước và lãi suất trên thị trường quốc tế. Cụ
thể, trong năm 2005, Ngân hàng Nhà nước đã 2 lần điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản từ 7,5
- 7,8 - 8,25%/năm; 3 lần tăng lãi suất tái cấp vốn từ 5,0 - 5,5 - 6,0 - 6,5%/năm, 3 lần
tăng lãi suất tái chiết khấu từ 3,0 -3,5 - 4,0 - 4,5%/năm. Bên cạnh đó, mức trần lãi suất
tiền gửi bằng USD của pháp nhân tại các tổ chức tín dụng đã đuợc điều chỉnh tăng 2 lần lên
mức 0,5% - 1,5%.
Nhìn chung, lãi suất thị trường trong năm 2005 đã tăng do điều kiện thị trường, nhưng không
đột biến và đảm bảo hài hoà mối quan hệ giữa người gửi tiền - tổ chức tín dụng - người đi
vay, tín dụng tiếp tục mở rộng đã hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế.
Năm 2006, Ngân hàng nhà nước tiếp tục giữ nguyên các mức lãi suất, đảm bảo sự
hợp lý giữa lãi suất VND và lãi suất ngoại tệ trong mối quan hệ với tỷ giá. Ngân hàng nhà
nước giữ nguyên các mức lãi suất chính thức như lãi suất cơ bản là 8,25%/năm, lãi suất tái
cấp vốn là 6,5%/năm, lãi suất tiền gửi USD tối đa của pháp nhân tại các TCTD đối với
tiền gửi không kỳ hạn là 0,5%/năm, kỳ hạn đến 6 tháng là 1,2%/năm và kỳ hạn trên 12
tháng là 1,5%/năm. Việc giữ ổn định lãi suất chính thức của Ngân hàng nhà nước nhằm
tránh tín hiệu làm tăng lãi suất thị trường trước sức ép tăng lãi suất thị trường quốc tế và lạm
phát trong nước vẫn ở mức cao, đồng thời tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng mở rộng
huy động và cho vay đối với nền kinh tế.
Năm 2007, với mục tiêu phát triển nền kinh tế và duy trì mức tăng trưởng kinh tế.
Ngân hàng nhà nước ra quyết định lãi suất cơ bản đồng Việt Nam vẫn duy trì ở mức ổn định
là 8.25%/năm áp dụng từ ngày 01/01/2007 (2517/QĐ-NHNN ngày 29/12/06) và được giữ
cho đến cuối năm 2007 và đến hết tháng đầu năm 2008.
Năm 2008, một năm đánh giá sự thành công của chính sách tiền tệ thông qua điều
hành lãi suất tiền gửi, lãi suất cơ bản và lãi suất dự trữ bắt buộc đã giúp ngân hàng vượt qua
thời kỳ sóng gió.
Trang 7
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Hai quý đầu của năm 2008, cùng với sự bất ổn trên thị trường tài chính thế giới, tình
hình kinh tế trong nước cũng diễn biến hết sức phức tạp. Giá cả tăng cao cùng với sụ dồn tích
khá lâu của luợng tiền thừa đã làm cho thị trường hàng hoá có hiện tượng “bốc hoả” về giá.
Thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ, công cụ lãi suất được sử dụng cùng với các công cụ
khác đã tác động mạnh đến thị trường, và phản ứng của thị trường thật mạnh mẽ: các hoạt
động cho vay gần như co cụm lại, lãi suất tăng vọt, luồng tiền gửi trở nên bất ổn, thị trường
vàng như con ngựa bất kham, giá cả hàng hoá tăng vọt,…
Với mục tiêu rút bớt tiền trong lưu thông về, theo Quyết định 305/QĐ-NHNN ngày
30/01/2008, lãi suất cơ bản sau 25 tháng giữ ổn định ớ mức 8,25%/năm tăng lên 0,5%/năm,
chuyển sang mức 8,75%/năm. Sau hơn 3 tháng thực hiện, đến ngày 19/05/2008, lãi suất cơ
bản vọt lên 12%/năm. Và chưa đầy 1 tháng sau, theo quyết định 1317/QĐ-NHNN ngày
11/06/2008 NHNN đã nâng thêm 2% đưa lãi suất cơ bản lên mức 14%/năm. Chiến dịch lãi
suất của các ngân hàng giai đoạn này đã tạo nên một dấu ấn khá sâu đậm. Chỉ trong vài ngày
mà lãi suất tiền gửi từ 15%/năm lên 19%/ năm, lãi suất cho vay được đẩy lên đến 21%/năm.
Lãi suất không chỉ là vấn đề trên thị trường giữa ngân hàng và khách hàng (thị trường I) nữa
mà nó còn diễn ra không kém phần quyết liệt giữa các ngân hàng với nhau (thị trường II).
Sự bình ổn trở lại được bắt đầu vào quý III năm 2008, chỉ số lạm phát và chỉ số giá cả
có xu hướng giảm dần. Cuộc chạy đua lãi suất cũng bắt đầu có dấu hiệu chững lại sau một
loạt các quyết định của NHNN trong việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ: lãi suất
cơ bản giảm xuống từ 14%/năm còn 8,5%/năm (Quyết định số 3161/QĐ-NHNN ngày
22/12/2008). Mặt bằng lãi suất mới được thiết lập, các NHTM đồng loạt giảm lãi suất. Tháng
12/2008, lãi suất cho vay phổ biến ở mức 12-13%/năm.
Những tháng đầu năm 2009, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã từng bước nới lỏng
chính sách tiền tệ để thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh và chủ động hạn chế tác động
của khủng hoảng tài chính, ngăn chặn nguy cơ suy giảm kinh tế. NHNN đã tiến hành chương
trình hỗ trợ lãi suất vay VND 4%/năm (trong chương trình hỗ trợ kinh tế của Chính phủ) đã
đưa lãi suất vay VND thực tế của các doanh nghiệp và người dân xuống còn 5-6%/năm.
Tuy nhiên, cùng với đà tăng trưởng trở lại của kinh tế trong nước cũng như thế giới,
càng về những tháng cuối năm, diễn biến thị trường tài chính-tiền tệ càng trở nên phức tạp,
áp lực lạm phát trở lại đối với nền kinh tế ngày càng rõ nét. Những tháng cuối năm 2009, tốc
độ tăng trưởng tín dụng luôn tăng cao hơn tốc độ huy động tiền gửi gây áp lực đến lãi suất
Trang 8
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
của thị trường. Do đó, việc nâng lãi suất cơ bản, tăng từ 7%/năm lên 8%/năm (áp dụng từ
1/12/2009), đã tạo ra sự ổn định, đưa lãi suất thị trường trở lại theo quy luật cung-cầu, tránh
sức ép, tiêu cực cho hệ thống tài chính - ngân hàng và nền kinh tế.
Nhận xét:
Biện pháp điều hành lãi suất đã có hiệu lực và hiệu quả đối với hoạt động kinh doanh
của Ngân hàng thương mại và lãi suất thị trường, thể hiện là lãi suất huy động và cho vay của
các Ngân hàng thương mại biến động theo cung - cầu vốn và tăng, giảm theo sự thay đổi của
các mức lãi suất điều hành của Ngân hàng Nhà nước, đã tác động làm thu hẹp hoặc mở rộng
tín dụng. Năm 2008 và những tháng đầu năm 2009, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán
và tín dụng phù hợp với chủ trương thắt chặt hoặc nới lỏng tiền tệ một cách thận trọng.
Việc điều hành linh hoạt lãi suất, vừa là công cụ điều tiết thị trường, vừa là động thái phát tín
hiệu về chủ trương của Chính phủ và giải pháp điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng
Nhà nước là thắt chặt hay mở rộng tiền tệ, đã và đang trở thành một chỉ số kinh tế quan trọng
trên thị trường tài chính, tiền tệ, được các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước quan tâm,
theo dõi, dự báo và có phản ứng khá nhanh nhạy, tích cực về hoạt động đầu tư, tiết kiệm và
tiêu dùng. Kết quả này có ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện được vai trò và những tác động
tích cực của chính sách tiền tệ đối với việc kiềm chế lạm phát và điều tiết kinh tế vĩ mô.
Cơ chế điều hành lãi suất cơ bản phù hợp với quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước
và Bộ luật Dân sự. Tuy vậy, cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là công cụ can thiệp trực tiếp
đối với lãi suất kinh doanh của Ngân hàng thương mại, có hạn chế nhất định việc thử nghiệm
và đưa ra thị trường các sản phẩm tín dụng có độ rủi ro cao, nhằm tìm kiếm lợi nhuận trên thị
trường. Xử lý vấn đề này, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư số
01/2009/TT-NHNN hướng dẫn về lãi suất thoả thuận của các Ngân hàng thương mại đối với
cho vay các nhu cầu vốn phục vụ đời sống, cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử
dụng thẻ tín dụng, đi kèm theo đó là cơ chế thống kê, theo dõi và thanh tra, giám sát nhằm
hạn chế rủi ro.
Từ những phân tích và nhận định nêu trên, trong thời gian tới, việc Ngân hàng Nhà
nước tiếp tục áp dụng cơ chế điều hành lãi suất cơ bản là một giải pháp thích hợp, phù hợp
với các mục tiêu kinh tế vĩ mô, cung - cầu vốn thị trường. Việc điều tiết lãi suất thị trường
theo hướng ổn định, được thực hiện kết hợp giữa điều tiết khối lượng tiền thông qua các công
cụ gián tiếp, điều hành linh hoạt các mức lãi suất chủ đạo và làm tốt công tác truyền thông.
Trang 9
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Sự thay đổi cơ chế điều hành lãi suất theo hướng tự do hoá phải trên cơ sở đánh giá một cách
khoa học và thực tiễn các điều kiện kinh tế, thị trường tài chính - tiền tệ ở trong và ngoài
nước, cũng như các rủi ro có thể xảy ra và các biện pháp xử lý để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ
mô, sự an toàn và phát triển của hệ thống tài chính.
2 CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC
Lạm phát, vấn đề kinh tế đe dọa không từ bất cứ quốc gia nào, đây cũng là nỗi lo ngại
của nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Để kìm chế lạm phát, ổn định kinh tế, NHNN mỗi quốc
gia đều có những công cụ vận dụng trong tình hình kinh tế đất nước cụ thể. Trong đó có công
cụ trữ bắt buộc là một trong những công cụ tạo hiệu ứng nhanh và mạnh.
Trong điều hành chính sách tiền tệ, kiểm soát lạm phát NHNN có thể gia tăng hay nới lỏng tỷ
lệ dự trữ bắt buộc theo thực tế lạm phát trên thị trường, và đưa những dự báo về lạm phát
trong tương lai từ đó hạn chế hay gia tăng khả năng tạo tiền của các NHTM.
Tình hình thị trường tiền tệ từ năm 2004 đến năm 2009 với ảnh hưởng của chính sách
dự trữ bắt buộc có thể khái quát như sau:
NĂM 2004:
Trước bối cảnh chỉ số giá tiêu dùng những tháng đầu năm tăng cao (do giá dầu thô và
giá nguyên vật liệu thế giới tăng cộng với thiên tai dịch bệnh đã điều chỉnh giá cả một số mặt
hàng), lạm phát 6 tháng đầu năm vượt trên 7% để thực hiện mục tiêu ổn định tiền tệ góp phần
tăng trưởng kinh tế, từ tháng 7/2004, Ngân hàng Nhà nước đã điều chỉnh tăng tỷ lệ dự trữ bắt
buộc đối với các loại tiền gửi dưới 24 tháng bằng VND và ngoại tệ (Quyết định số 796/QĐ-
NHNN ngày 25/6/2004). Cụ thể, đối với tiền gửi VND không kỳ hạn và có kỳ hạn đến dưới
12 tháng tăng từ 2% lên 5%, riêng Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt
Nam tăng từ 1,5% lên 4%, ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn và Quỹ tín dụng nhân
dân Trung ương tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi bằng VND kỳ hạn từ 12 tháng đến dưới
24 tháng tăng từ 1% lên 2%. Đối với tiền gửi ngoại tệ không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12
tháng tăng từ 4% lên 8%, loại từ 12 tháng đến dưới 24 tháng tăng từ 1% lên 2%.
Đồng thời, để khuyến khích các tổ chức tín dụng sử dụng vốn có hiệu quả, tránh tăng
lãi suất dẫn đến dư thừa vốn VND, Ngân hàng Nhà nước đã thay đổi phương thức trả lãi đối
với tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng VND (Quyết định số 923/QĐ-NHNN ngày 20/7/2004).
Theo đó, đối với dự trữ bắt buộc bằng VND, Ngân hàng Nhà nước chỉ trả lãi cho tiền
Trang 10
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
gửi dự trữ bắt buộc (1,2%/năm) mà không trả lãi cho phần tiền gửi dự trữ bắt buộc
vượt.
NĂM 2005:
Từ kỳ thực hiện dự trữ bắt buộc tháng 7-2004, Tỷ lệ dự trữ cao năm được duy trì
trong suốt cả năm 2005. Không có được con số thống kê chính xác tổng số tiền dự trữ bắt
buộc tăng thêm phải nộp về NHNN trong năm 2005 so với các năm trước, nhưng ước tính
cũng phải tới 6000-7000 tỷ đồng.Điều đó có nghĩa là, để góp phần thực hiện mục tiêu lạm
phát, hàng nghìn tỷ đồng đó được thu về “giam” trong kho, không được đầu tư cho nền kinh
tế.
NĂM 2006: Để giảm áp lực tăng lãi suất huy động trên thị trường, duy trì ổn định tiền tệ và
góp phần phục vụ tăng trưởng kinh tế, NHNN đã giữ nguyên tỷ lệ DTBB.
NĂM 2007:
Quyết định tỷ lệ dự trữ bắt buộc tăng mạnh (từ 5% lên 10%, riêng Agribank là 8%)
của Ngân hàng Nhà nước Động thái này được xét đến ở áp lực rút tiền trong lưu thông để
kiềm chế lạm phát có dấu hiệu tăng cao. Các ngân hàng đã ngồi lại với nhau để phản ứng về
quyết định này, bởi chi phí của mỗi thành viên có thể bị đội thêm 0,25% từ việc tăng dự trữ
bắt buộc
Thông thường, Ngân hàng Nhà nước tăng tỷ lệ dữ trữ bắt buộc khi tăng trưởng tín
dụng nóng. Nhưng thông tin từ các ngân hàng thương mại lại khá bất ngờ: Tăng trưởng tín
dụng hiện chưa đến mức quá nóng, thậm chí khá thấp, để có một tỷ lệ dự trữ tăng nhanh và
mạnh như vậy. 90% trong số đại diện các ngân hàng đưa ra ý kiến đều bức xúc về quyết
định tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc, ở mức tăng quá nhanh và mạnh
Cụ thể, theo một lãnh đạo ngân hàng khối quốc doanh, tăng trưởng tín dụng 6 tháng
đầu năm của khối thương mại cổ phần cũng chỉ gần 20%; bình quân của 4 ngân hàng quốc
doanh lớn tính đến 20/6 cũng chỉ khoảng 12%, trong đó cao nhất như Ngân hàng Ngoại
thương cũng chỉ khoảng 18% (5 tháng đầu năm), thấp như Ngân hàng Công thương
(Incombank) chỉ khoảng 6,9%.
Yêu cầu chung của các ngân hàng là cần có một lộ trình và mức tăng dần, tránh
đột ngột và gây sốc. Đặc biệt, trước một chính sách tác động mạnh đến hoạt động các
ngân hàng, họ phải được góp tiếng nói của mình trước đó.
NĂM 2008 :
Trang 11
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Sáu tháng đầu năm 2008, lạm phát trong nước cao 19.39% vào 1/2008. Ảnh hưởng
khủng hoảng tài chính Mỹ làm khả năng trả nợ của khách hàng giảm sút khiến các NH không
muốn đẩy mạnh cho vay mà chú trọng vào việc bảo đảm an toàn hoạt động. Mặt khác kinh tế
Việt Nam phụ thuộc quá nhiều vào nguồn nguyên vật liệu thế giới. Cú sốc giá lương thực thực
phẩm, giá dầu, giá phôi thép, giá phân bón… khiến hàng nội địa tăng giá chóng mặt trong nửa
đầu năm 2008. NHNN thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 10%
lên 11%/năm và nâng lãi suất cơ bản từ 8.25% lên 8.75%/năm kể từ 01/02/2008 lãi suất huy
động có lúc lên trên 20%, lãi suất cho vay cũng tăng lên ở mức tương ứng. Vấn đề lạm phát
vào thời điểm đầu năm 2008 này đang là điểm nóng của kinh tế vĩ mô Việt nam. Việc NHNN đã
và đang cùng lúc thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ chống lạm phát thông qua sử dụng các công
cụ CSTT, trong đó có việc tăng và mở rộng diện đối tượng tiền gửi tại NHTM phải trích DTBB
vào thời điểm này tuy sẽ tác động gây khó khăn cho tiềm lực mở rộng tín dụng của các NHTM,
nhưng là rất cần thiết và kịp thời để góp phần quyết định trong các nỗ lực của Chính Phủ về chủ
trương kiểm soát lạm phát. Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã có Quyết định 2133/QĐ-NHNN
về lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng. Mức lãi suất
tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng từ 3,6%/năm được nâng
lên 5%/năm (Quyết định này thay thế Quyết định 1907/QĐ-NHNN ngày 29/8/2008), tức là tăng
thêm 1,4%/năm, kể từ ngày 1/10.
NĂM 2009:
Ngày 24/2 Ngân hàng Nhà nước đã có quyết định số 378 điều chỉnh mức lãi suất cơ bản
VND, từ 1/3/2009, giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với tiền gửi bằng VND của các tổ chức tín
dụng, đồng thời tiếp tục giữ nguyên lãi suất cơ bản VND. Cụ thể, lãi suất cơ bản được giữ
nguyên ở mức 7%/năm và lãi suất cho vay tối đa là 10,5%/năm. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với
tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 12 tháng được điều chỉnh đối với mọi loại hình tổ chức
tín dụng. Tỷ lệ dữ trữ bắt buộc đối với tiền gửi có kỳ hạn trên 12 tháng áp dụng cho mọi tổ chức
tín dụng là 1% trên tổng số dư tiền gửi phải dự trữ bắt buộc. Ngân hàng nhà nước VN cho biết,
mục đích của việc thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ nêu trên nhằm ổn
định thị trường tiền tệ, lãi suất, tỷ giá và hỗ trợ vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng có
điều kiện mở rộng huy động vốn và tín dụng có hiệu quả đối với nền kinh tế, kể cả việc cho
vay đối với các dự án đầu tư theo chương trình kích cầu của Chính phủ.
Trang 12
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Ngày 17/7, Thống đốc NHNN đã ban hành quyết định về mức lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc
bằng VND đối với tổ chức tín dụng. Với mức giảm 2,4%, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc chỉ
còn 1,2%/năm.Theo Quyết định số 1681/QĐ-NHNN do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước
(NHNN) ký ngày 17/7, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín
dụng là 1,2%/năm và thời điểm bắt đầu áp dụng là từ ngày 1/8 tới.
Như vậy, lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng đồng Việt Nam đối với tổ chức tín dụng đã
giảm từ mức 3,6%/năm (theo 174/QĐ-NHNN) xuống còn 1,2%/năm.
3 CÔNG CỤ CHO VAY TÁI CẤP VỐN
Năm 2004 không phải là năm của công cụ cho vay tái cấp vốn. Mãi đến năm 2005, để
mở rộng khả năng điều tiết tiền tệ của NHTW, NHNN đã sử dụng công cụ này để điều tiết thị
trường bằng cách ban hành Quyết định 1909/QĐ-NHNN ngày 30/12/2005 về việc các
TCTD sử dụng một số loại trái phiếu trong giao dịch tái cấp vốn của NHNN. Theo đó,
danh mục giấy tờ có giá được sử dụng trong các giao dịch cầm cố, thấu chi và cho vay qua
đêm, giao dịch kỳ hạn trong chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở đã được mở rộng, bao
gồm các trái phiếu do Quỹ hỗ trợ phát triển, trái phiếu UBND Thành phố Hà Nội và Thành
phố Hồ Chí Minh phát hành. Trong năm 2005, các TCTD đã quan tâm hơn đến việc sử
dụng các công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu của NHNN. Các TCTD đã sử dụng triệt để
hơn hạn mức chiết khấu được phân bổ, tỷ lệ sử dụng hạn mức chiết khấu đã tăng từ 60% lên
80% tổng hạn mức chiết khấu được phân bổ. Đối với giao dịch tái cấp vốn trong năm 2005
doanh số giao dịch tăng 50% so với năm 2004.
Bước sang năm 2006, vốn khả dụng của các TCTD xét trên toàn hệ thống có xu hướng
dư thừa, nhưng tập trung chủ yếu ở một số NHTM Nhà nước. Trong khi đó, hoạt động thị
trường liên ngân hàng chưa thực sự thông suốt nên một số NHTM Cổ phần, chi nhánh NH
nước ngoài vẫn có thiếu hụt tạm thời về vốn khả dụng. Do đó, NHNN đã tiếp tục sử dụng
công cụ tái cấp vốn dưới các hình thức chiết khấu, cầm cố giấy tờ có giá nhằm hỗ trợ
cho các NHTM Cổ phần, chi nhánh ngân hàng nước ngoài đảm bảo khả năng thanh
toán. Trong năm 2006, doanh số cho vay cầm cố giấy tờ có giá bằng khoảng 18,8% doanh số
cho vay cầm cố giấy tờ có giá năm 2005.
Năm 2007, với nhiệm vụ bình ổn thị trường tài chính, giữ vững tăng trưởng kinh tế, và
sự phát triển mạng lưới hàng loạt các ngân hàng thương mại. Cùng với việc hoàn thiện các
luật về thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản đã mở rộng cửa cho các nguồn vốn
Trang 13
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
từ nước ngòai ồ ạt đổ vào thị trường Việt Nam. NHNN quyết định giữ nguyên lãi suất tái
cấp vốn là 6,50%/năm, lãi suất chiết khấu đối với các tổ chức tín dụng là 4,5%/năm
(2517/QĐ-NHNN ngày 29/12/2006) và duy trì đến hết tháng 02/2008.
Năm 2008, Và tiếp tục thực thi chính sách tiền tệ “thắt chặt” nhằm kiềm chế lạm
phát, ổn định kinh tế vĩ mô ngày 29/02/08 NHNN nâng lãi suất tái cấp vốn 7.5%/năm, lãi
suất tái chiết khấu 6%/năm. Ngày 24/04/2008 NHNN quyết định tái cấp vốn dưới hình thức
cho vay có bảo đảm để trợ khả năng thanh toán cho các ngân hàng thương mại một cách kịp
thời, trên cơ sở đề nghị của NHTM, điều kiện cung - cầu vốn thực tế và mục tiêu điều hành
chính sách tiền tệ, cơ chế tái cấp vốn hiện hành (CV 3764/NHNN-CSTT). Ngày 30/05/2008
NHNN quyết định tăng lãi suất tái cấp vốn 13%/năm, lãi suất tái chiết khấu 11%/năm
(1257/QĐ-NHNN). Và tiếp tục tăng lãi suất tái cấp vốn 15%/năm, lãi suất tái chiết khấu
13%/năm (1316/QĐ-NHNN ngày 10/06/2008)
NHNN thực hiện các quyết định giảm lãi suất tái cấp vốn xuống 14%/năm, lãi suất tái
chiết khấu giảm xuống 12%/năm, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân
hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
đối với các ngân hàng giảm xuống 14%/năm (2318/QĐ-NHNN ngày 20/10/2008). Ngày
03/11/2008 lãi suất tái cấp vốn giảm 13%/năm; lãi suất tái chiết khấu giảm xuống 11%/năm;
lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng giảm
13%/năm (2561/QĐ-NHNN ngày 23/11/2008).
Và đến Năm 2009, khi nền kinh tế có dấu hiệu hồi phục, lãi suất cơ bản dần đi vào ổn
định NHNN đã ban hành các quyết định để phù hợp hơn với thị trường tài chính tiền tệ.
NHNN quyết định hạ lãi suất tái cấp vốn xuống 8%, lãi suất tái chiết khấu xuống 6%, lãi
suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt
vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng xuồng
8% (173/QĐ-NHNNN ngày 23/1/2009). Đến ngày 10/4/2009 lại tiếp tục giảm xuống lãi suất
tái cấp vốn xuống 7%, lãi suất tái chiết khấu xuống 5%, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh
toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ của Ngân
hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng xuồng 7% (837/QĐ-NHNN).
4 CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ:
Trang 14
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Theo đánh giá của các NHTM, nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành ngày càng
linh hoạt hơn, góp phần hạn chế những bất cập của thị trường và phát huy vai trò điều tiết
vốn khả dụng của các tổ chức tín dụng, đáng chú ý là sự gia tăng mạnh về số phiên giao
dịch, doanh số giao dịch, và xu hướng mua bán 2 chiều ngày càng thể hiện rõ.
Trong năm 2004, nghiệp vụ thị trường mở đã được tăng cường sử dụng như một
công cụ chủ yếu trong điều tiết tiền tệ theo mục tiêu chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà
nước thông qua việc bơm/hút vốn khả dụng của tổ chức tín dụng với thời hạn ngắn từ 7-60
ngày. Tổng doanh số giao dịch của năm 2004 đạt có 123 phiên giao dịch được thực hiện với
khối lượng giao dịch 61.935,91 tỷ đồng. Khối lượng giao dịch bình quân một phiên là 503,5
tỷ đồng/phiên. Tổng doanh số giao dịch năm 2004 đã tăng đáng kể so với những năm đầu,
gấp gần 16 lần năm 2001.
Để hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các tổ chức tín dụng và ổn định thị trường tiền tệ,
từ 1/11/2004 Ngân hàng Nhà nước đã tăng định kỳ giao dịch các phiên nghiệp vụ thị trường
mở lên 3 phiên/tuần và đặc biệt trong các dịp giáp Tết, các phiên giao dịch thị trường mở
được tổ chức hàng ngày.
Từ 07/12/2004, việc Ngân hàng Nhà nước hướng dẫn phần mềm vận hành phần mềm
nghiệp vụ thị trường mở qua mạng tại thành viên và chi nhánh NHNN được uỷ quyền, qua
mạng tại sàn giao dịch (theo Công văn số 901&902/CV-THNH), áp dụng công nghệ thông
tin, mở qua mạng vi tính áp dụng công nghệ trang Web trong đặt thầu và đấu thầu đã tạo
thuận lợi cho các thành viên tham gia thị trường (giảm chi phí đầu tư ban đầu do không phải
cài đặt phần mềm).
Tiếp tục phát huy hiệu quả đạt được trong năm 2004, bước sang năm 2005, Ngân
hàng Nhà nước đã tiếp tục điều tiết linh hoạt vốn khả dụng của các TCTD thông qua
nghiệp vụ thị trường mở, nhất là trong dịp Tết nguyên đán. Năm 2005: có 159 phiên giao
dịch được thực hiện với khối lượng giao dịch 102.479,15 tỷ đồng. Tổng doanh số giao dịch
năm 2005 gấp hơn 1,65 lần năm 2004 và gấp 26 lần năm 2001. Như vậy, năm 2005 với số
lượng phiên giao dịch tăng 29,3% so với năm 2004, và doanh số đã tăng hơn 65% so với năm
2004. Khối lượng giao dịch trong từng phiên cũng tăng bình quân từ 82 tỷ đồng/phiên (năm
2001) lên 644,5 tỷ đồng/phiên (năm 2005), cá biệt có phiên lên tới 3.500 tỷ đồng/phiên (vào
thời điểm giáp Tết).
Trang 15
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Để điều tiết kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD, trong năm 2005, nghiệp vụ thị
trường mở được thực hiện theo định kỳ 3 phiên/tuần. Đặc biệt trong dịp giám tết âm lịch, 10
ngày cuối năm 2005, nghiệp vụ thị trường mở được thực hiện trong tất cả các ngày làm việc.
Cá biệt, trong một số thời điểm khi nhu cầu hỗ trợ thanh khoản của các TCTD tăng cao,
NHNN đã thực hiện 2 phiên/ngày để hỗ trợ cho các TCTD đảm bảo khả năng thanh toán, chi
trả, duy trì ổn định tiền tệ. Quy mô hoạt động được tiếp tục mở rộng, tăng cường khả năng
điều tiết của công cụ này đến vốn khả dụng của các TCTD và các điều kiện thị trường tiền tệ.
Trong năm 2006, nghiệp vụ thị trường mở đã được điều hành một cách thận
trọng, linh hoạt thông qua thực hiện giao dịch theo cả 2 chiều (mua và bán) giấy tờ có giá
trên cơ sở bám sát diễn biến vốn khả dụng, diễn biến kinh tế và mục tiêu điều hành CSTT.
NHNN đã hỗ trợ kịp thời vốn khả dụng cho các TCTD, đáp ứng nhu cầu đảm bảo khả năng
thanh toán nhất là trong dịp Tết nguyên đán và dịp cuối năm 2006, góp phần duy trì ổn định
thị trường tiền tệ. Từ sau tết nguyên đán, vốn khả dụng của các TCTD có xu hướng dư thừa
do huy động vốn tăng và nguồn ngoại tệ nước ngoài vào Việt Nam nhiều, NHNN cung ứng
tiền mua ngoại tệ. Để điều tiết linh hoạt vốn khả dụng cho các TCTD và thực hiện mục tiêu
kiềm chế lạm phát, NHNN đã thực hiện chào bán hẳn giấy tờ có giá với thời hạn ngắn.
Kết quả là năm 2006, có 162 phiên giao dịch được thực hiện với khối lượng giao dịch
124.234 tỷ đồng (với thời hạn ngắn 7 -56 ngày, phương thức đấu thầu lãi suất). Tổng doanh
số giao dịch năm 2006 gấp hơn 1,21 lần năm 2005 và gấp 2 lần năm 2004. Như vậy, năm
2006, tuy số lượng phiên giao dịch tăng không đáng kể so với năm 2005 nhưng doanh số đã
tăng khoảng 21% so với năm 2005 và tăng 100% so với năm 2004. Khối lượng giao dịch
bình quân một phiên là 767 tỷ đồng/phiên, tăng 19% so với năm 2005 và tăng hơn 52% so
với năm 2004.
Thời điểm gần cuối năm 2007, NHNN đã tăng cường hơn khối lượng chào bán trong
từng phiên, đa dạng hoá kỳ hạn nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài, các tổ chức đầu tư, các
tổ chức tín dụng; đồng thời tạo ra hành lang pháp lý trong quá trình giao dịch thị trường mở
hạn chế thấp nhất những rũi ro có thể xảy ra. Với mục tiêu góp phần kiểm soát lạm phát, ổn
định tiền tệ, NHNN liên tục chào bán tín phiếu Ngân hàng Nhà nước để hút tiền từ lưu thông
về với việc tăng cường khối lượng chào bán trong từng phiên, tăng số phiên chào bán trong
tuần, đa dạng hóa kỳ hạn và xác định lãi suất chào bán ở mức hợp lý. Cụ thể tháng 08/2007
đối với tín phiếu NHNN đã bổ sung thêm 03 kỳ hạn dài hơn là 182 ngày (6 tháng), 273 ngày
Trang 16
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
(9 tháng), 364 ngày (12 tháng). Tháng 11/2007, tiếp tục tăng cường và đa dạng hóa các kỳ
hạn tín phiếu (28, 56, 84, 112 , 140, 182, 364 ngày). Tuy nhiên, phần lớn các giao dịch chủ
yếu là các kỳ hạn dưới 6 tháng. Vi thế, cần phải đa dạng hoá các giao dịch khác nhau trong
một phiên giao dịch để các NHTM có điều kiện lựa chọn đấu thầu phù hợp với nhu cầu điều
tiết vốn khả dụng của mình.
Năm 2008, nghiệp vụ thị trường mở dần dần được hoàn thiện NHNN đã ban hành
quyết định 27/2008/QĐ-NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế nghiệp vụ
thị trường mở ban hành kèm theo Quyết định số 01/2007/QĐ-NHNN ngày 05/01/2007 của
Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Và các phương thức mua và bán các giấy tờ có giá như:
giao dịch mua có kỳ hạn; giao dịch bán có kỳ hạn; giao dịch mua hẳn; giao dịch bán hẳn đều
được thực hiện trong một phiên giao dịch.
Theo đánh giá của NHNN, nghiệp vụ thị trường mở tiếp tục trở thành kênh chủ yếu
để NHNN bơm tiền ra nền kinh tế và thu tiền về từ lưu thông, góp phần quan trọng điều hoà
vốn khả dụng của các ngân hàng thương mại với số lượng thành viên tham gia đặt thầu, số
phiên và khối lượng giao dịch đều tăng hơn trước.
5 CÔNG CỤ TỶ GIÁ
Sơ đồ tỷ giá USD/VND liên ngân hàng từ 2005-2010
Năm 2004: Ngân hàng Nhà nước đã điều hành tỷ giá linh hoạt sát với cung cầu trên
thị trường, phát huy lợi thế cho hoạt động xuất khẩu mà vẫn không để hoạt động nhập khẩu
gặp khó khăn. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước đã can thiệp trên thị trường ngoại hối vào
Trang 17
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
những thời điểm thích hợp, góp phần ổn định tỷ giá và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động
thanh toán quốc tế. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng không ngừng hoàn thiện các
công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá như chỉnh sửa các quy định về tỷ giá kỳ hạn theo hướng
ngày càng tự do hoá để chu chuyển ngoại tệ đạt đến trạng thái cân bằng, tạo điều kiện thông
thoáng về giao dịch hoán đổi.
Cùng với các giải pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ nêu trên, tỷ giá cũng được duy
trì ổn định (tỷ giá trên thị trường liên ngân hàng tăng 0,84%). Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà
nước đã thực hiện tốt vai trò người mua bán cuối cùng trên thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng, đáp ứng kịp thời và đầy đủ các nhu cầu về ngoại tệ của nền kinh tế. Thêm vào đó,
lượng kiều hối tăng mạnh hơn so với năm 2003 đã góp phần giữ được ổn định tỷ giá.
Năm 2005: điều hành tỷ giá (USD/VND) ổn định tương đối (tăng 0,86%), phù hợp
tình hình thực tế quan hệ cung - cầu (cung ngoại tệ lớn hơn về cầu ngoại tệ); tỷ giá trên thị
trường tự do và trên thị trường liên ngân hàng không có sự chênh lệch đáng kể, vị thế đối
ngoại của đồng Việt Nam tiếp tục được duy trì khi đặt tương quan trong mối quan hệ với các
đồng tiền chủ chốt trên thế giới như đồng Euro, Yên Nhật, Bảng Anh,... Việc ổn định tỷ giá
đã góp phần ổn định thị trường tiền tệ, tạo lòng tin của người dân đối với VND, tránh được
sự dịch chuyển từ VND sang gửi ngoại tệ trong bối cảnh lạm phát cao. Đồng thời tạo tâm lý
thuận lợi, hướng nhìn nhận tốt về môi trường đầu tư ở Việt Nam đối với nhà đầu tư nước
ngoài.
Trang 18
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Năm 2006: Ngân hàng nhà nước tiếp tục thực hiện cơ chế tỷ giá thả nổi có quản lý,
thực hiện can thiệp mua bán ngoại tệ trên thị trường theo mục tiêu chính sách kinh tế vĩ mô,
góp phần kiểm soát lạm phát, khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tăng
dự trữ ngoại hối Nhà nước. So với thời điểm đầu năm, tỷ giá bình quân trên thị trường ngoại
tệ liên ngân hàng giữa đồng Việt Nam với Đôla Mỹ tăng 1,38%, tỷ giá mua bán ngoại tệ trên
thị trường tự do cũng luôn tăng, giảm theo biến động của tỷ giao dịch bình quân trên thị
trường liên ngân hàng.
Năm 2007: để thực hiện cơ chế chính sách tiền tệ đồng thời kích thích xuất khẩu,
ngày 24/12/2007 Ngân hàng nhà nước đã quyết định nới rộng biên độ tỷ giá từ ±0,5% lên
±0,75% (tăng 0,25%). Trong năm này, Ngân hàng nhà nước đã ba lần thực hiện mở rộng biên
độ tỷ giá:
+ Ngày 1/7/2002: Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ +0,1% lên ±0,25%;
+ Ngày 31/12/2006: Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ ±0,25% lên ±0,5%; và
+ Ngày 24/12/2007, Ngân hàng nhà nước đã mở rộng biên độ từ ±0,5% lên mức ±0,75%.
Việc mở rộng biên độ trong tháng 12 nằm trong chủ trương chung là tạo điều kiện để nền
kinh tế Việt Nam ngày càng thích nghi với mức độ mở cửa, hội nhập với nền kinh tế thế giới.
Theo quy định trước đây thì các Ngân hàng thương mại chỉ được ấn định tỷ giá mua bán
giữa VND với USD trong biên độ ±0,5% so với tỷ giá bình quân liên ngân hàng do Ngân
hàng nhà nước thông báo, nay với biên độ ±0,75% các Ngân hàng thương mại sẽ có điều kiện
ấn định tỷ giá mua bán linh hoạt hơn sát với cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Cơ chế tỷ giá
ngày càng linh hoạt hơn sẽ đòi hỏi các Ngân hàng thương mại và thanh viên tham gia thị
trường ngoại hối phải nâng cao khả năng phòng ngừa rủi ro về biến động tỷ giá, để đảm bảo
hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Năm 2008: Diễn biến tỷ giá ngoại tệ của Việt Nam từ đầu năm 2008 đến nay là hết
sức phức tạp. Trong quý 1/2008, có những lúc tỷ giá USD liên ngân hàng xuống dưới 16.000
và tỷ giá thị trường tự do thậm chí còn thấp hơn trong ngân hàng. Nhưng chỉ qua đầu quý 2,
tỷ giá lại tăng đến chóng mặt, có lúc đã lên tới 19.500.
Ngân hàng nhà nước đã quyết định nới biên độ dao động từ +1% lên +2% (từ ngày 26/06/08)
đồng thời triển khai hàng loạt các biện pháp khác: kiểm soát chặt các đại lý thu đổi ngoại tệ,
tăng cường truyền thông, công bố dự trữ ngoại hối của Việt Nam (điều chưa hề có tiền lệ tại
Việt Nam), … Nhờ đó, tỷ giá đã dần dịu lại và duy trì ở mức ~ 16.500 cho đến hết quý 3/08.
Trang 19
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Từ cuối năm 2008, suy thoái kinh tế đã tác động mạnh đến nguồn cung ngoại tệ của Việt
Nam; cộng thêm tâm lý găm giữ ngoại tệ của dân cư và các thành phần kinh tế đã dẫn đến
tình trạng khan hiếm ngoại tệ, làm cho tỷ giá ngoại tệ luôn nóng, phố biến ở mức gần bằng
18.000.
Năm 2009: Tỷ giá chính thức giữa USD và VND trong năm 2009 đã trải qua hai lần
điều chỉnh, một lần vào tháng 3 (+2%) do tăng biên độ giao dịch từ 3% lên 5% (quyết định
số 622/QĐ-NHNN ngày 23/03/2009) và lần gần nhất là vào tháng 11 (+3,4%). Mặc dù sau
mỗi lần điều chỉnh, tỷ giá chính thức đều lên kịch trần nhưng tỷ giá trên thị trường không
chính thức (tỷ giá thị trường tự do) vẫn luôn nằm ngoài biên độ cho phép của Ngân hàng Nhà
nước.
Tỷ giá USD/VND 2008 - 2009
Nguồn: Global Financial Data, Ngân hàng Nhà nước và tổng hợp của Trường Fulbright.
Tuy nhiên, nhìn chung tỷ giá ngoại tệ đang dần ổn định, nhu cầu ngoại tệ trong thanh toán
những mặt hàng thiết yếu được đáp ứng cơ bản đầy đủ.
Nhận xét:
Chính sách tỷ giá của Ngân hàng Nhà Nước, trong thời gian vẫn còn một số bất cập:
Thứ nhất, việc định giá VND cao so với USD trong một thời gian dài đã góp phần
làm giảm năng lực cạnh tranh của hàng xuất khẩu, đồng thời khuyến khích nhập khẩu. Điều
này được chứng minh bằng một thực tế là nhập siêu của Việt Nam tăng nhanh liên tục trong
Trang 20
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
mấy năm trở lại đây, từ 2,8 tỷ USD trong năm 2006 lên 8,2 tỷ USD năm 2007 và 17,5 tỷ
USD trong năm 2008. Dự kiến thâm hụt thương mại của Việt Nam trong năm 2009 cũng sẽ
vào khoảng 12-13 tỷ USD.
Thứ hai, nhập siêu tăng nhanh trở lại trong khi các nguồn thu ngoại tệ chính như xuất
khẩu, đầu tư nước ngoài, kiều hối và du lịch đều giảm sút mạnh so với năm 2008; và cùng
với việc doanh nghiệp và người dân chuyển sang nắm USD và vàng đã làm cho cán cân
thanh toán của Việt Nam thâm hụt nặng.
Điều này một mặt khiến dự trữ ngoại hối của Việt Nam giảm một cách tương ứng (từ
khoảng 23 tỷ USD vào cuối năm 2008 xuống còn hơn 17 tỷ USD vào quý 3/2009), mặt khác
khiến áp lực giảm giá VND tiếp tục được duy trì.
Trong bối cảnh này, chính sách tiền tệ nói riêng và chính sách vĩ mô nói chung cần hết sức
thận trọng. Chính sách cần thiết trong giai đoạn sắp tới là thắt chặt chính sách tiền tệ. Một số
chính sách gần đây của Ngân hàng Nhà nước (giảm giá VND, tăng lãi suất qua đêm liên ngân
hàng và lãi suất cơ bản) vì vậy là một sự chuyển hướng đúng đắn.
Việc chấm dứt hỗ trợ lãi suất 4% cũng là một chính sách hợp lý vì bên cạnh tác động
thắt chặt tín dụng, nó còn khuyến khích các doanh nghiệp có USD chuyển một phần dự trữ
USD sang VND để đáp ứng các nhu cầu vốn lưu động, nhờ đó giảm áp lực cho thị trường
ngoại hối. Bên cạnh đó, việc tác động tới kỳ vọng của thị trường thông qua từng bước điều
chỉnh tỷ giá USD/VND sẽ đóng vai trò hết sức quan trọng trong việc cân đối lại cấu trúc
danh mục nắm giữ tiền của người dân và doanh nghiệp. Cuối cùng, việc lấy lại niềm tin cho
Ngân hàng Nhà nước, và nhờ đó lấy lại hiệu lực cho chính sách vĩ mô của chính phủ, là điều
mà chính phủ phải đạt được để có thể đưa nền kinh tế vượt qua những thách thức hiện nay.
Để làm được điều này, một thái độ thực sự cầu thị, một hệ thống chính sách đúng
đắn, nhất quán và một cơ chế giao tiếp thông tin chính xác, kịp thời với người dân, với thị
trường là những điều kiện tiên quyết.
6 CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG
Ngân hàng nhà nước mới công bố mức tăng trưởng tín dụng của các Ngân hàng
thương mại đến hết quý 3/2009 đạt 28%, sát ngưỡng mục tiêu năm 2009 là 30%. Mặc dù dư
nợ tín dụng đã tăng khá cao, tuy nhiên, lạm phát vẫn trong tầm kiểm soát.
Ngân hàng nhà nước sẽ không điều chỉnh lãi suất cơ bản và tỷ lệ dự trữ bắt buộc, nhưng cũng
sẽ không cung ứng thêm tiền vào lưu thông
Trang 21
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Dù không đưa ra hạn mức tín dụng cho vay tiêu dùng, nhưng những chỉ đạo của Ngân hàng
nhà nước luôn khá chặt chẽ với tín dụng tiêu dùng. Điều này là đúng nếu xét trên khía cạnh
tiềm ẩn rủi ro khi các Ngân hàng thương mại không kiểm soát chặt mục đích sử dụng tiền
vay của khách hàng.
Tuy nhiên, cho vay tiêu dùng mới làm tăng sức cầu của xã hội. Trong giai đoạn vừa
qua, khi Chính phủ thực hiện chính sách kích cầu, hỗ trợ lãi suất... thì tác động trước tiên là
đến lĩnh vực sản xuất và lưu thông hàng hoá, như thế cung được kích thích trước. Tuy nhiên
sản xuất vẫn là để tiêu thụ và cầu tiêu thụ sẽ được gia tăng nếu xã hội có thêm tiền từ vay
ngân hàng để chi tiêu.
Việc giảm cho vay tiêu dùng cũng đồng nghĩa làm giảm sức cầu của xã hội là một việc
không nên làm.
Về quản lý nhà nước, nếu Ngân hàng nhà nước dùng các biện pháp kỹ thuật để giới
hạn tín dụng tiêu dùng tăng trưởng cũng đồng nghĩa là can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh
doanh của Ngân hàng thương mại. Còn nếu sợ các Ngân hàng thương mại buông lỏng kiểm
soát chặt chẽ cho vay tiêu dùng để dòng tiền vay bổ sung vào dòng vốn đầu cơ trên thị trường
chứng khoán, vàng, bất động sản làm các thị trường này phát sinh tình trạng "bong bóng" gây
tác hại cho nền kinh tế thì nên áp dụng các biện pháp như: Buộc việc cho vay tiêu dùng phải
có hợp đồng mua bán (ví dụ mua bán nhà đất), có hóa đơn tài chính, có đóng thuế/hay có
giấy tờ chứng minh nhu cầu vay là thật.
Ngoài ra đối với Ngân hàng thương mại cho vay, Ngân hàng nhà nước thông qua số
liệu giám sát từ xa hay qua công tác thanh tra tại chỗ nếu thấy tình trạng cho vay tiêu dùng
không chặt chẽ, không phục vụ cho mục đích tiêu dùng thì Ngân hàng nhà nước vẫn có thể
khuyến cáo trực tiếp bằng văn bản hay xử phạt hành chính.
Việc gia tăng tín dụng tiêu dùng còn làm cho Ngân hàng thương mại xử lý hiệu quả
được phần nào đầu ra của nguồn vốn huy động với lãi suất cao, không gây áp lực khiến Ngân
hàng nhà nước phải tăng lãi suất cơ bản, giúp cho nguồn vốn tín dụng phục vụ sản xuất kinh
doanh vẫn ở mức như hiện nay trong một khoảng thời gian dài, không ảnh hưởng đến chính
sách kích cầu mà Chính phủ đang thực hiện.
III/ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ NHỮNG NĂM QUA:
1 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:
Trang 22
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Góp phần ổn định giá trị đồng bản tệ:
− Đây là thành tựu đáng được ghi nhận ở Việt Nam, bằng các công cụ điều tiết, những
quyết định hết sức nhanh nhậy, kịp thời trong việc điều hành lãi suất, tỷ giá…NHNN đã kiểm
soát chặt chẽ khối lượng tiền cung ứng hàng năm và đó được xem như một bàn tay hữu hiệu
đẩy lùi và kiềm chế lạm phát, ổn định sức mua của đồng tiền Việt Nam, làm cho giá cả ổn
định, đời sống người dân không ngừng được cải thiện.
− Cuối năm 2008 cuộc khủng hoảng tài chính quốc tế đã tác động tiêu cực đến nền kinh
tế Việt Nam, áp lực giảm phát bắt đầu xuất hiện, kim ngạch xuất khẩu giảm mạnh và GDP
đạt thấp. Để phục hồi kinh tế, chủ động ngăn ngừa lạm phát và đảm bảo an toàn hệ thống
ngân hàng, NHNN đã thực hiện CSTT nới lỏng theo hướng giảm các mức lãi suất chủ đạo
(lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn và lãi suất tái chiết khấu), đồng thời điều chỉnh giảm tỷ lệ
dự trữ bắt buộc đối với VND nhằm giảm mặt bằng lãi suất cho vay, tăng cường nguồn vốn
huy động, đáp ứng nhu cầu mở rộng tín dụng cho nền kinh tế. Theo đó, lãi suất cơ bản giảm
từ 14% xuống còn 13%/năm kể từ ngày 21/10/2008 và ngày 05/12/2008 chỉ còn 10%, lãi suất
tái cấp vốn được điều chỉnh giảm từ 15% xuống còn 14% kể từ ngày 21/10/2008 và xuống
11%/năm kể từ ngày 05/12/2008.
− Mặt khác, nhằm thực hiện Nghị quyết số 30/CP ngày 11/12/2008 của Chính phủ về
những giải pháp ngăn chặn suy giảm kinh tế, đặc biệt là gói kích cầu qua hình thức hỗ trợ lãi
suất 4%, từ tháng 2/2009 NHNN đã tiếp tục điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất với lãi suất cơ
bản giảm xuống còn 7%/năm, lãi suất tái cấp vốn 7%/năm, lãi suất tái chiết khấu còn
5%/năm. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng được điều chỉnh giảm.
− Ngoài ra, NHNN cũng điều hành linh hoạt nghiệp vụ thị trường mở, chủ yếu chào
mua tờ có giá với kỳ hạn và lãi suất hợp lý nhằm đưa tiền ra lưu thông; điều chỉnh tăng biên
độ tỷ giá giữa VND và USD, chấn chỉnh hoạt động mua bán, thu đổi ngoại tệ.
− Tuy nhiên, từ cuối tháng 11/2009, để phù hợp với diễn biến mới của nền kinh tế,
NHNN đã điều chỉnh giảm biên độ ấn định tỷ giá xuống còn ± 3 kể ngày 26/11/2009, đồng
thời điều chỉnh tỷ giá bình quân liên ngân hàng áp dụng cho ngày 26/11/2009 tăng thêm
5,4% so với ngày 25/11/2009; lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất tái chiết khấu cũng
được điều chỉnh tăng thêm 1% kể từ tháng 12/2009.
Trang 23
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
− Kết thúc năm 2009, tổng mức tín dụng tăng 37,73%, nguồn vốn huy động vốn tại các
tổ chức tín dụng tăng 28,7%, tổng phương tiện thanh toán tăng 28,67%, lạm phát được kiềm
chế ở mức 6,88%.
Tóm lại, trong năm 2009, NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt
và hiệu quả, đáp ứng nhu cầu tín dụng hỗ trợ phục hồi kinh tế, góp phần duy trì các chỉ số
tiền tệ và kinh tế vĩ mô ở mức hợp lý.
Góp phần tăng trưởng kinh tế:
− Việc ổn định giá trị VND đã tạo lòng tin của nhân dân vào đồng bản tệ, tạo môi
trường đầu tư lành mạnh, thu hút được nguồn vốn đáng kể từ trong và ngoài nước. Đặc biệt
việc điều chỉnh các công cụ CSTT: lãi suất, tỉ lệ dự trữ bắt buộc... của NHNN ở các giai đoạn
cụ thể đã có vai trò quan trọng ảnh hưởng tới việc huy động và phân bổ nguồn vốn có hiệu
quả trong nền kinh tế của các TCTD. Cũng từ đó mà góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế
liên tục qua các năm.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) ở Việt Nam từ 2004 đến nay
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 2009 dự báo 2010
GDP
(%) 7,79 8,44 8.23 8,48 6,23 5,32 6,5 - 7
Nguồn: Tổng cục thống kê
Từ các kết quả trên cho thấy, việc sử dụng các công cụ điều tiết của CSTT ở Việt Nam đã
góp phần thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng. Có được kết quả trên còn phải kể đến vai trò của
nhiều CSKT vĩ mô khác nữa và đặc thù của nền kinh tế Việt Nam đó là chúng ta chưa đạt
được mức năng suất biên của sản lượng tiềm năng trong nền kinh tế.
2 HẠN CHẾ:
Tuy nhiên, trong quá trình triển khai các giải pháp tiền tệ đã bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể
như:
− Trong chương trình hỗ trợ lãi suất ngắn hạn 4%, việc phối hợp giữa các Bộ, ngành
trong việc cho vay đối với lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn chưa tốt, xử lý các vướng mắc
còn chậm nên kết quả đạt thấp.
− Việc nới lỏng chính sách tiền tệ thông qua thực hiện cơ chế hỗ trợ lãi suất cũng đã
khiến tổng phương tiện thanh toán và dư nợ tín dụng tăng cao, ảnh hưởng đến việc kiềm chế
lạm phát năm 2009 và có thể sẽ bị kéo dài sang năm 2010 do độ trễ của chính sách tiền tệ.
Trang 24
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
− Cấp quản lý của NHNN cũng chưa nhanh nhạy thực hiện các giải pháp nhằm ngăn
ngừa tình trạng mất cân đối cung- cầu ngoại tệ ở một số thời điểm căng thẳng, đồng thời
chưa có biện pháp xử lý kịp thời, mạnh tay đối với những tin đồn thất thiệt trên thị trường
ngoại hối.
− Cho đến cuối tháng 12/2008, tình hình kinh tế có dấu hiệu khả quan hơn, hoạt động
ngân hàng đang khởi sắc trở lại, huy động vốn và cho vay đang bắt đầu trở về với nhịp độ
bình thường, lãi suất không còn đóng vai trò gần như tuyệt đối trong việc hướng dẫn khách
hàng có nguồn tiền gửi… Tuy nhiên, hoạt động của các thị trường vẫn trong tình trạng chưa
có dấu hiệu cải thiện, luồng di chuyển tiền tệ trong nền kinh tế đang có hiện tượng chậm lại,
tiến độ cho vay của các ngân hàng cũng như khả năng tiếp cận vốn vay từ phía các doanh
nghiệp tuy đã phần nào được giải tỏa song vẫn là vấn đề nan giải. Hoạt động tín dụng vẫn
còn ở trạng thái cầm chừng, trong 10 tháng đầu năm 2008, tăng trưởng tín dụng chỉ đạt
19,6%, nếu so với 30% - giới hạn tăng trưởng tín dụng NHNN đặt ra cho năm 2008 thì hoạt
động tín dụng mới chỉ “đi được” 2/3 “quãng đường”. Như vậy, tỷ lệ 19,6% tăng lên của hoạt
động tín dụng trong 10 tháng đầu năm 2008 là một con số chưa được thỏa mãn. Đây là dư âm
và hậu quả của cuộc chạy đua lãi suất trong những tháng đầu năm 2008 và tác động của các
công cụ chính sách tiền tệ đã được sử dụng, thể hiện qua mặt trái của việc vận hành các công
cụ chính sách tiền tệ:
o Điều chỉnh giảm lãi suất cho vay - một khó khăn của các NHTM. Mặc dù hoạt
động ngân hàng là hoạt động kinh doanh và thu lãi từ hoạt động tín dụng hiện vẫn
là nguồn thu chủ yếu của các NHTM Việt Nam, song hoàn toàn không phải vì thế
mà các ngân hàng muốn nâng lãi suất cho vay. Bởi lẽ, ngay cả trong điều kiện
mọi hoạt động trong nền kinh tế diễn ra bình thường thì việc nâng lãi suất cũng sẽ
làm giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng, khách hàng tốt sẽ bỏ đi, khách hàng
xấu thì ở lại. Còn trong điều kiện lạm phát cao, việc tăng lãi suất cho vay cũng là
điều dễ hiểu - vốn dĩ lãi suất cũng là một loại giá, mặt bằng giá cả tăng, thì lãi suất
huy động vốn tăng, và vì thế, lãi suất cho vay cũng tăng theo.
o Tuy nhiên, lãi suất cho vay không phải chỉ bị ảnh hưởng bởi mặt bằng giá cả
mà nguyên nhân chính là nó phải chịu sự chi phối của quan hệ cung cầu tín dụng
trong nền kinh tế, mà trong đó NHTW có thể thực hiện vai trò điều tiết của mình
thông qua các công chính sách tiền tệ để trực tiếp điều chỉnh lãi suất hoặc gián
Trang 25
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
tiếp điều chỉnh quan hệ cung cầu tín dụng. Ngân hàng cho vay dựa trên cơ sở
nguồn vốn phải trả lãi huy động được từ nền kinh tế, nhưng đồng thời đó cũng là
nguồn để dự trữ bắt buộc, để mua tín phiếu bắt buộc... trên cơ sở đó, ngân hàng
phải tự cân đối nguồn vốn khả dụng, cân đối lãi suất để nếu không có lời thì cũng
phải duy trì hoạt động của ngân hàng. Vì thế, toàn bộ các tín hiệu được phát ra từ
NHNN như tăng dự trữ bắt buộc, tăng lãi suất cơ bản, mua tín phiếu bắt buộc
trong những tháng đầu năm 2008 đã buộc các ngân hàng phải nâng lãi suất, phải
thắt chặt tín dụng.
o Sự tương tác giữa các ngân hàng có phần suy giảm - cũng là một hệ lụy do
việc vận dụng chính sách tiền tệ thời gian qua mang lại. Nếu như quá trình tạo
tiền của các ngân hàng được thực hiện trong khi các ngân hàng tiến hành các hoạt
động kinh doanh thì chính quá trình đó lại là bằng chứng về mối liên hệ gắn bó,
không thể tách rời giữa các ngân hàng trong quá trình hoạt động. Mỗi ngân hàng
có thể có mục tiêu riêng, có chiến lược hoạt động riêng, có thương hiệu riêng...
cùng với nhiều điểm khác biệt. Song, trong quá trình tạo tiền thì tất cả đều giống
như đang cùng di chuyển trên một con thuyền. Chính vì vậy, trong hoạt động
ngân hàng, đòi hỏi giữa các thành viên phải có sự tương tác, hỗ trợ lẫn nhau để
cùng tồn tại và phát triển, nhất là trong những hoàn cảnh đặc biệt khó khăn, nếu
không tương tác hỗ trợ thì có thể gây ra khủng hoảng toàn hệ thống, lúc đó thật
khó có thể tồn tại. Thực ra các ngân hàng đều thấu hiểu sự ràng buộc đó, song có
những khoảnh khắc rất ngắn trong những tháng đầu năm 2008, nhiều ngân hàng
phải đối diện với vấn đề thanh khoản, những yêu cầu gấp gáp, khẩn trương cả về
thời gian và số lượng đã buộc các ngân hàng phải đưa ra những phương án xử lí
vấn đề thanh khoản một cách quyết liệt. Tiền huy động về đã cho vay rồi - cho
vay thì luôn luôn có thời hạn, kể cả đến hạn trả nợ thì việc đòi nợ lại khó khăn.
Các ngân hàng phải lên kế hoạch, vạch chiến lược thanh khoản cho từng giờ - làm
sao tránh khỏi việc chiêu dụ khách hàng của nhau; sử dụng công cụ lãi suất ép
nhau... Ngay trên thị trường liên ngân hàng, các ngân hàng cũng đã có lúc đối xử
với nhau như không phải họ đang trong cùng một trận tuyến chống lạm phát - lãi
suất cho vay giữa các ngân hàng có lúc lên đến 43%/năm - một con số không thể
ngờ tới.
Trang 26
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
o Nợ xấu và rủi ro tiềm ẩn tăng lên. Lãi suất cao, thắt chặt tín dụng, giá cả
nguyên vật liệu tăng vọt... là những gánh nặng đè lên vai các doanh nghiệp. Trong
hoàn cảnh đó, rõ ràng các dự án đang hoạt động không thể tiến hành bình thường,
các dự án mới không thể bắt đầu được, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh không
thể có cơ hội để duy trì ổn định và doanh nghiệp đã gặp không ít khó khăn khi
phải đương đầu với những thay đổi thất thường của nền kinh tế: lúc giá cả lên cao
- chi phí nguyên vật liệu tăng vọt, khi giá cả giảm xuống - sản phẩm làm ra không
thể bán giá cao… Nợ mới đã không vay được thì nợ cũ cũng không dễ gì trả được
- nợ chồng nợ, nợ đọng, nợ khó thu hồi, đảo nợ... có nhiều cơ hội phát sinh, rủi ro
tiềm ẩn tăng lên. Không thể khác được, sự khó khăn của doanh nghiệp lại gây hậu
quả ngược lại cho ngân hàng.
IV/ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM
1 ĐỊNH HƯỚNG
1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế
Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2010
Về tốc độ tăng trưởng GDP: Theo đánh giá sơ bộ của IMF, kinh tế toàn cầu sẽ phục
hồi và tăng 3,1% năm 2010 sau khi giảm 1,1% năm 2009, chủ yếu nhờ các nền kinh tế châu
Á với mức tăng trưởng GDP thực đạt gần 5% sau khi tăng 1,75% trong năm 2009, những nền
kinh tế mới nổi khác có tốc độ phục hồi khiêm tốn. Các nước phát triển chỉ tăng 1,25% sau
khi giảm 3,5% trong năm 2009, tỉ lệ thất nghiệp còn cao cho đến cuối năm. Trên toàn cầu,
tốc độ phục hồi nhìn chung rất chậm và hoạt động kinh tế vẫn còn kém xa thời điểm trước
khủng hoảng, nhiều nhà đầu tư còn bị ám ảnh bởi đại suy thoái 1929-1933 và những tổn thất
vừa qua.
Nhìn chung, kinh tế toàn cầu còn mong manh và dễ bị tổn thương trước các cú sốc, kể
cả khả năng tăng giá dầu, sự tái diễn của cúm H1N1 và các sự kiện chính trị. Ngoài ra là rủi
ro trung hạn, chủ yếu tại các nước phát triển với mức thâm hụt ngân sách khá cao. Trên toàn
cầu, tăng trưởng bền vững trong thời kỳ trung hạn sẽ phụ thuộc lớn vào khả năng ổn định
nguồn cung và tái cân bằng nhu cầu.
Kinh tế thế giới năm 2010 tiếp tục phục hồi, nhưng rủi ro còn lớn do việc cắt giảm
các khoản hỗ trợ để giảm thâm hụt ngân sách còn gặp khó khăn, trong khi chính phủ muốn
Trang 27
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
nhanh chóng khôi phục sản xuất, nhiều nhà đầu tư còn gặp khó khăn và dè dặt trong việc trở
lại hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến khả năng tạo việc làm và thu nhập.
Bối cảnh kinh tế Việt Nam năm 2010
Trong những tháng đầu năm 2010, nền kinh tế phải đối diện với nhiều thách thức lớn:
Lạm phát gia tăng, tỷ giá leo thang, tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng gặp khó khăn,
doanh nghiệp tăng chi phí vốn. Tuy nhiên, phần lớn những khó khăn này chỉ mang tính tạm
thời và kỳ vọng có thể sớm giải quyết vẫn đề trong ngắn hạn. Để ổn định được KTVM thì
Chính phủ phải điều hành theo hướng cân bằng được hai mục tiêu tăng trưởng kinh tế và
kiềm chế lạm phát, đi đôi với giảm thâm hụt ngân sách và chênh lệch cán cân thanh toán.
Theo chu kỳ kinh tế 10 năm (1990-1999 và 2000-2009), thì năm 2010 sẽ là năm hồi
phục của nền kinh tế Việt Nam từ mức đáy 2009. Xu hướng tăng trưởng nhu cầu tiêu dùng
nội địa và nhu cầu nhập khẩu của nước ngoài khi kinh tế thế giới dần phục hồi sẽ kích thích
các nhà sản xuất trong nước mạnh tay trong việc đầu tư máy móc thiết bị phục vụ SXKD,
chuyển hướng phục vụ tốt hơn nhu cầu nội địa và phát triển thêm các thị trường mới..
Theo dự kiến của một số chuyên gia thì kinh tế vĩ mô năm 2010 sẽ đạt những kết quả
tốt hơn năm 2009. Tốc độ tăng trưởng GDP sẽ ở khoảng 6,5%, cao hơn mức 5,32% của năm
2009; kim ngạch xuất khẩu sẽ tăng trở lại khoảng 6% thay vì đã âm tới 10% trong năm 2009;
CPI tiếp tục được giữ ở mức dưới 7%; nhập siêu sẽ giảm...
Trang 28
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
Để đạt được những kết quả dự kiến trên, Chính phủ đang tiếp tục duy trì chính sách
tiền tệ ổn định trong năm tới. Giá trị VND sẽ giữ ổn định nhưng vẫn phải điều chỉnh linh
hoạt theo tỷ giá đồng USD nhằm kích thích xuất khẩu, vừa giảm nhập siêu và giữ thăng bằng
cán cân tổng thể.
1.2 Một số định hướng cơ bản:
− Việc vận hành các công cụ của CSTT một mặt từng bước hoà nhập với thông lệ quốc
tế, mặt khác cần đảm bảo tính độc lập tự chủ theo đúng định hướng của Đảng và Nhà nước .
− Nhất quán quan điểm cơ bản là: từng bước một chuyển đổi từ việc sử dụng các công
cụ trực tiếp sang gián tiếp để quản lý mức cung tiền có hiệu quả hơn.
− Việc áp dụng ,điều chỉnh các công cụ của CSTT phải chú ý đến tính thực tiễn đó là
thực trạng nền kinh tế VN và đặt trong mối quan hệ với các chính sách kinh tế vĩ mô khác để
đảm bảo sự phát triển ổn định của nền kinh tế .
Trong năm 2010, định hướng. mục tiêu và các giải pháp lớn về điều hành chính sách
tiền tệ của NHNN năm 2010 là: Điều hành các công cụ chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt
và thận trọng nhằm ổn định thị trường tiền tệ, bảo đảm khả năng thanh khoản của hệ thống
ngân hàng, kiểm soát tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, dư nợ tín dụng và áp dụng lãi
suất, tỷ giá ở mức hợp lý phù hợp với diễn biến tình hình, đáp ứng yêu cầu kích thích tăng
trưởng kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô và ngăn ngừa lạm phát cao trở lại.
Để đạt được mục tiêu này, NHNN sẽ triển khai các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm
như điều hành các công cụ tiền tệ, tỷ giá, thị trường ngoại hối linh hoạt trong mối quan hệ
với lãi suất, chỉ số giá tiêu dùng, cán cân thương mại và các kênh đầu tư khác; mở rộng tín
dụng phù hợp với mục tiêu kinh tế vĩ mô, theo hướng tập trung vốn cho các lĩnh vực sản xuất
để tạo việc làm, thúc đẩy tăng trưởng bền vững; tăng cường khả năng phát hiện, cảnh báo
sớm rủi ro hoạt động ngân hàng...
2 GIẢI PHÁP :
Mặc dù cho đến nay, tình hình kinh tế khá ổn định, hoạt động của các ngân hàng có
nhiều chuyển biến tích cực, lòng tin của người dân cũng đang dần dần được hồi phục, song
trên thực tế, những tác động trái chiều của chính sách tiền tệ vẫn còn ảnh hưởng không nhỏ
đến hoạt động của các ngân hàng và thông qua đó ảnh hưởng đến nền kinh tế... Vấn đề này
cần được thảo luận một cách nghiêm túc, bởi lẽ ngân hàng là nơi cung cấp vốn - điều kiện
đầu vào cho mọi quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, nếu khả năng tiếp cận
Trang 29
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
nguồn vốn ngân hàng gặp khó khăn, mọi hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ không thể tiến
hành bình thường được và như vậy, kinh tế khó có thể tăng trưởng. Nhất là trong điều kiện
mà lạm phát đang được kiểm soát, nhưng giảm phát và suy thoái kinh tế - nỗi lo chung của
xã hội, lại đang có dấu hiệu xuất hiện: thị trường bất động sản tuy có dấu hiệu rục rịch nhưng
vẫn trong tình trạng đóng băng, thị trường chứng khoán đang trong giai đọan cố gắng nhưng
vẫn “trồi” “sụt” bất thường, thị trường hàng hóa cũng trong tình trạng suy giảm (cung cầu
đều khó khăn, giá cả thì đảo chiều)… Để giảm bớt những tác động trái chiều của chính sách
tiền tệ cần lưu ý một số vấn đề sau:
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi
− Việc hoạch định CSTT cũng như các công cụ của CSTT cần đặt nó trong một chỉnh
thể thống nhất có tính đến sự linh hoạt của thị trường. CSTT cần được độc lập với chính sách
tài chính và đảm bảo tính thống nhất trong hệ thống các chính sách kinh tế vĩ mô của nhà
nước.
− Thị trường tiền tệ và thị trường liên ngân hàng cần tiếp tục được củng cố và phát triển
để một mặt tạo ra tín hiệu cho việc hoạch định CSTT mặt khác là cơ chế lan truyền tốt nhất
để phát huy có hiệu quả các công cụ của CSTT.
− Theo hướng đó cần tiếp tục đẩy mạnh quá trình hoàn thiện,cơ cấu lại hệ thống NH để
đảm bảo một môi trường cạnh tranh lành mạnh sôi động .
− Năng lực kỹ thuật của NHNN cần được nâng cao đặc biệt là trong việc thu thập ,xử lý
thông tin và ra quyết định điều hành CSTT
− Cần hoàn thiện hành lang pháp lý về hệ thống ngân hàng ,tài chính để cơ chế thực thi
CSTT nói chung ,các công cụ của CSTT nói riêng được nghiêm minh và có hiệu quả hơn.
− Cần có các biện pháp khuyến khích phù hợp nhằm tạo ra những nếp thói quen mới
trong tâm lý của các cá nhân ,các doanh nghiệp để giúp việc thực hiện các công cụ của CSTT
có hiệu quả hơn
2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ .
Để nâng cao hiệu quả của qúa trình thực thi CSTT đòi hỏi phải nhanh chóng hoàn
thiện và tiếp tục phát triển hệ thống các công cụ bám sát thực tiễn Việt Nam -phục vụ đắc lực
cho quá trình đổi mới CSTT. Hệ thống các công cụ phải được xây dựng và hoàn thiện theo
hướng hỗ trợ ,phối hợp thúc đẩy lẫn nhau tránh tình trạng triệt tiêu hiệu quả của nhau .Cụ
thể:
Trang 30
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
• Đối với công cụ hạn mức tín dụng:
NHNN tuy không coi đây là một công cụ thường xuyên nhưng cũng cần phải theo
dõi tổng số dư nợ của các NHTM ở các giai đoạn cụ thể và NHNN sẽ can thiệp vào hoạt
động này trong điều kiện cụ thể.
• Đối với công cụ lãi suất :
Việc điều chỉnh lãi suât cần linh hoạt gắn với thị trường trên nguyên tắc đảm bảo lợi
ích của cả người gửi tiền,tổ chức tín dụng và người vay tiền, tạo điều kiện tập trung tối đa
các nguồn vốn để tài trợ cho phát triển kinh tế .
Do vậy để điều chỉnh lãi suất tiền gửi và lãi suất tiền vay một cách phù hợp các tổ
chức tín dụng phải căn cứ vào các nhân tố:Lợi nhuận bình quân của các doanh nghiệp;sự
biến động của quan hệ cung cầu;vốn đầu tư; mức độ lạm phát và diễn biến lãi suất trên thị
trường .
NHNN cần tiếp tục duy trì việc điều chỉnh mức lãi suất tiền gửi và tiền vay dài hạn
cao hơn lãi suất tiền gửi và tiền vay ngắn hạn nhằm huy động vốn dài hạn đầu tư cho nền
kinh tế .Việc xác định lãi suất cho vay dài hạn có tính đến xu hướng tăng hay giảm lãi suất
ngắn hạn trong từng thời kỳ .
Duy trì mức chênh lệch giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoạt tệ một cách hợp lý ,từng
bước giảm dần và đi đến chấm dứt hiện tượng “đô la hoá” trên đất Việt Nam .
Có thể nói, trong các loại lãi suất thì lãi suất thị trường liên ngân hàng sẽ phát ra tín
hiệu phù hợp nhất, lãi suất này không chỉ chịu sự chi phối của cung cầu vốn mà còn chịu ảnh
hưởng, tác động của lãi suất chỉ đạo phát ra từ NHNN: lãi suất tái cấp vốn, lãi suất chiết
khấu. Lãi suất thị trường liên ngân hàng đặc biệt phát huy tác dụng trong điều kiện khó khăn
về thanh khoản của các NHTM.
• Đối với công cụ dự trữ bắt buộc :
- Nên mở rộng đối tượng áp dụng qui chế dự trữ bắt buộc,tỷ lệ dự trữ bắt buộc đưa ra
phải phù hợp với diễn biến thị trường tiền tệ ,với mục tiêu CSTT và đặc điểm cụ thể của các
tổ chức tín dụng trong toàn bộ hệ thống tổ chức tín dụng ở Việt Nam
- Cần phải có những biệp pháp tăng cường kiểm tra việc chấp hành dự trữ bắt buộc,
đi đôi với việc xử phạt nghiêm các trường hợp vi phạm qui chế dự trữ để đảm bảo sự lành
mạnh của hệ thống tài chính ,ngân hàng thực hiện tốt mục tiêu CSTT
Trang 31
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- NHNN nên có các biện pháp khuyến khích các NHTM thực hiện tốt các qui chế dự
trữ như:quy định số tiền phải chịu qui chế dự trữ bắt buộc phù hợp, tiếp tục trả tiền lãi cho
số tiền gửi dư thừa của các tổ chức tín dụng với mức lãi suất phù hợp với khả năng tài chính
NHNN.
- Trong thời gian trước mắt ,để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ,tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần
phải giảm bớt ở mức độ phù hợp để tạo điều kiện cho các NHTM thúc đẩy quá trình huy
động và cung ứng vốn tín dụng cho nền kinh tế.
- Trong tương lai, khi thị trường tiền tệ ,thị trường vốn đã phát triển, các công cụ
khác có thể phát huy tác dụng một cách một cách mạnh mẽ thì ngân hàng Nhà nước nên có
dự kiến giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với các NHTM để họ được linh động, mạnh dạn hơn
trong hoạt động kinh doanh của mình .
• Đối với công cụ cho vay tái chiết khấu:
- Cần thúc đẩy việc sử dụng rộng rãi các thương phiếu trong các quan hệ tín dụng
thương mại. Muốn vậy nó cần phải có một cơ sở pháp lý đảm bảo ,trước mắt đó là việc xúc
tiến các hoạt động để đưa pháp lệnh thương phiếu (hiệu lực từ 1/7/2000) đi vào thực tiễn.
- NHNN nên có cơ chế phù hợp để kiểm soát một cách chặt chẽ các dự án cho vay tái
cấp vốn, tái chiết khấu vì điều này nó ảnh hưởng quan trọng tới hiệu quả việc điều chỉnh mức
cung tiền .
- Nên xoá bỏ tình trạng bao cấp trong thực hiện cho vay chiết khấu và nên mở rộng
đối tượng được vay chiết khấu để phát huy vai trò “người cho vay cuối cùng” của NHNN và
đảm bảo sự ổn định, lành mạnh của hệ thống ngân hàng.
- Phát triển thị trường nội tệ liên ngân hàng (qui mô,chất lượng) để NHNN có cơ sở
chính xác hơn trong việc định ra mức lãi suất cho vay tái chiết khấu ,tạo ra tín hiệu tốt đối
với hoạt động kinh doanh của các NHTM. Mặt khác ,cùng với xu hướng tự do hoá lãi suất
thì vai trò của mức lãi suất tái chiết khấu sẽ ngày càng tăng lên ,trở thành một công cụ gián
tiếp điều tiết lãi suất thị trường một cách hữu hiệu ,thúc đẩy sự phát triển kinh tế
• Đối với công cụ nghiệp vụ thị trường mở:
Phải phát triển thị trường mở theo hướng đưa nó trở thành một công cụ hữu hiệu ,linh
hoạt nhất của CSTT ở Việt Nam.Muốn vậy cần phải:
Trang 32
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
- Theo dõi ,tính toán ,dự đoán vốn khả dụng của các ngân hàng ,diễn biến lạm phát
lãi suất ,đầu tư…để trên cơ sở đó NHNN có quyết định can thiệp vào thị trường mở như thế
nào (mua bán tín phiếu) ,với lượng là bao nhiêu.
- NHNN cần có các quy định rõ về các công cụ, đối tượng tham gia thị trường mở
và linh hoạt trong cơ chế mua bán tại thi trường mở.
- Thúc đẩy quá trình tạo hàng hoá cho nghiệp vụ thị trường mở: làm đại lý phát hành
tín phiếu ,trái phiếu kho bạc, phát hành tín phiếu NHNN, cho phép NHTM phát hành các
loại chứng chỉ tiền gửi…Muốn vậy NHNN phải nắm được ( quản lý) được các hoạt động này
đồng thời tạo ra tính “thanh khoản”, hấp dẫn cao của các công cụ trên thị trường mở.
- Có cơ chế thích hợp, để khuyến khích các tổ chức tín dụng coi nghiệp vụ thị trường
mở là một “thói quen” trong hoạt động của họ.
- Để thị trường mở hoạt động có hiệu quả cần có sự phát triển đồng bộ của các thị
trường khác đặc biệt là thị trường tiền tệ liên ngân hàng và thị trường thứ cấp.
Tóm lại, việc sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ để điều tiết hoạt động ngân hàng
và thông qua đó điều tiết các hoạt động kinh tế là những hoạt động thường ngày, tuy nhiên để
vận hành các công cụ này một cách có hiệu quả thì một mặt phải tuân thủ những nguyên tắc
nhất định song mặt khác lại không thể rập khuôn, máy móc mà rất cần sự sáng suốt, linh hoạt
và nhạy bén.
Trang 33
ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ TIỀN TỆ CỦA NHNH VIỆT NAM
I/ CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ VÀ CÁC CÔNG CỤ ĐIỀU HÀNH
CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ... .. 1
1.CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:... .. 1
1.1. Khái niệm:... .. 1
1.2 Mục tiêu của chính sách tiền tệ: ... ... 1
2.CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ:... 0.1
2.1 Lãi suất: ... ... 1
2.2 Dự trữ bắt buộc:... .. 2
2.3 Cho vay tái cấp vốn: ... 0.3
2.4 Nghiệp vụ thị trường mở:... .. 3
2.5 Tỷ giá hối đoái:... 0.4
2.6 Hạn mức tín dụng:... 0.5
II/ THỰC TRẠNG VẬN DỤNG CÁC CÔNG CỤ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ GIAI
ĐOẠN 2004 - 2009: ... 0.5
1 CÔNG CỤ LÃI SUẤT... 0.5
2 CÔNG CỤ DỰ TRỮ BẮT BUỘC ... 0.10
3 CÔNG CỤ CHO VAY TÁI CẤP VỐN ... .. 13
4 CÔNG CỤ NGHIỆP VỤ THỊ TRƯỜNG MỞ:... ... 14
5 CÔNG CỤ TỶ GIÁ ... ... 17
6 CÔNG CỤ HẠN MỨC TÍN DỤNG ... 0.21
III/ ĐÁNH GIÁ QUÁ TRÌNH THỰC HIỆN CÁC CÔNG CỤ CỦA CHÍNH SÁCH
TIỀN TỆ NHỮNG NĂM QUA: ... ... 22
1 NHỮNG THÀNH TỰU ĐẠT ĐƯỢC:... 0.22
2 HẠN CHẾ:... .. 24
IV/ ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN VIỆC SỬ DỤNG CÁC CÔNG CỤ
TIỀN TỆ Ở VIỆT NAM... 0.27
1 ĐỊNH HƯỚNG... 0.27
1.1 Bối cảnh trong nước và quốc tế ... .. 27
Bối cảnh kinh tế thế giới năm 2010 ... .. 27
2 GIẢI PHÁP :... .. 29
2.1 Nhóm giải pháp nhằm tạo điều kiện ,môi trường thuận lợi... .. 30
2.2 Nhóm giải pháp về việc hoàn thiện các công cụ của chính sách tiền tệ . .. .. 30
Trang 34
Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2012
Hệ thống thông tin quản lý
Chƣơng 1. GIỚI THIỆU VỀ HỆ THỐNG THÔNG TIN QUẢN LÝ
1.1. Vài nét về thời đại thông tin
Trước những năm 1980, trên thế giới gần như chưa biết tới khái niệm hệ
thống thông tin quản lý. Các nhà quản lý không quan tâm tới việc xử lý các thông tin nhận được và phân phối những thông tin đó trong doanh nghiệp của họ. Họ
không quan tâm tới thông tin cũng như các lợi ích mà nó đem lại . Việc đầu tư vào hệ thống thông tin trong doanh nghiệp còn là một cái gì đó khá tốn kém và đem lại hiệu quả không cao. Vào thời kỳ này quá trình thông tin diễn ra giữa các nơi khác nhau trên diện rộng toàn cầu còn chưa được đặt ra. Quá trinh quản lý và tạo lập các quyết định quan trọng của doanh nghiệp mới chỉ chủ yếu dựa trên việc cân nhắc các hiện tượng nảy sinh trong môi trường kinh doanh một cách trực tiếp, thông qua kinh nghiệm và bằng trực giác của người quản lý.
Vào những năm 1980 ,với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ máy tính và đặc biệt là của các phần mềm máy tính, đã giúp cho hệ thống thông tin có một cơ
hội phát triển mạnh mẽ hơn trong các doannh nghiệp. Vào thời kỳ này, hệ thống
thông tin đã bắt đầu vai trò phân tích sự kiện trên các dữ liệu thu thập được và thiết lập các mô hình quyết định để các nhà quản lý có thể lựa chọn ra phương án tốt nhất để thực hiện.
Năm 1986, Richard Mason ( giáo sư về hệ thống thông tin ) đã viết:
Ngày nay trong các xã hội phương tây của chúng ta, số lượng nhân viên thu thập, xử lý và phân phối thông tin nhiều hơn số lượng nhân viên ở bất cứ một nghề nào khác. Hàng triệu máy tính được lắp đặt trên thế giới và nhiều triệu km cáp quang, dây dẫn và sóng điện từ kết nối con người, máy tính cũng như các phương tiện xử lý thông tin lại với nhau
Các doanh nghiệp mà hoạt động chủ yếu của chúng là xử lý thông tin như
Ngân hàng, các tổ chức môi giới, các công ty bảo hiểm các doanh nghiệp quảng
cáo, trước đây chiếm một tỷ lệ nhỏ trong GDP của các nước; thì từ năm 1988 trở lại đây chúng đã chiếm một tỷ lệ ngày càng lớn. Đối với nhiều doanh nghiệp lớn, thông tin vừa là nguyên liệu vừa là sản phẩm cuối cùng. Xã hội của chúng ta thực sự là xã hội thông tin, thời đại của chúng ta là thời đại thông tin.
Thời đại thông tin dược phân biệt với những thời đại khác bởi năm đặc điểm
quan trọng:
Thời đại thông tin xuất hiện do sự xuất hiện của các hoạt động xã hội dựa trên nền tảng thông tin.
Kinh doanh trong thời đại thông tin phụ thuộc vào công nghệ thông tin được sử dụng để thực hiện công việc kinh doanh.
Trong thời đại thông tin năng xuất lao động tăng lên nhanh chóng. Hiệu quả sử dụng công nghệ thông tin xác định sự thành công trong
thời đại thời đại thông tin.
Trong thời đại thông tin, công nghệ thông tin có mặt trong hầu hết các sản phẩm và dịch vụ.
- 1 -
Bảng 1.1. Những điểm khác biệt của thời đại thông tin so với một số thời đại
khác
Thời đại nông nghiệp Thời đại công
nghiệp Thời đại
thông tin
Khoảng thời gian
Trước 1800
1800 tới 1957
1957 tới nay
Nhân công chính
Nông dân Công nhân trong nhà máy Nhân công tri
thức
Quan hệ lao động Con người và đất đai Con người và máy
móc Con người và con người
Công cụ chủ yếu
Công cụ cầm tay
Máy móc Công nghệ
thông tin
1.2. Các loại thông tin trong doanh nghiệp
1.2.1. Phân biệt giữa dữ liệu và thông tin
Dữ liệu là những sự kiện hay những gì quan sát được trong thực tế và chưa
hề được biến đổi sửa chữa cho bất cứ một mục đích nào khác.
Như việc một doanh nghiệp bán một lô hàng nào đó sẽ sinh ra rất nhiều dữ liệu về số lượng hàng hóa bán, giá bán, nơi bán hàng, thời gian bán hàng, địa điểm
bán hàng, khách hàng chi trả bằng tiền mặt hay chuyển khoản … Nói một cách khác, dữ liệu là tất cả những đặc tính của các thực thể như con người, địa điểm, các đồ vật và các sự kiện …
Ở khái niệm trên chúng ta cần phải hểu thực thể là gì? Thực thể là một sự vật
hay một cài gì đó tồn tại và phân biệt được. Ví dụ mỗi con người cũng là một thực thể, mỗi chiếc xe máy cũng là một thực thể, chúng ta cũng có thể nói mỗi con kiến cũng là một thực thể nếu chúng ta phân biệt được con này với con khác ( chẳng hạn ta đánh số cực nhỏ trên mỗi con kiến )
Khác với dữ liệu được coi như những nguyên liệu ban đầu, thông tin cần được phân biệt như một sản phẩm hoàn chỉnh thu được sau quá trình xử lý dữ liệu. Đôi khi thuật ngữ dữ liệu và thông tin thường được sử dụng thay thế nhau trong một
số trường hợp. Tuy vậy, trong những trường hợp đó chúng ta vẫn cần xác định rằng
thông tin là những dữ liệu đã được xử lý sao cho nó thực sự có ý nghĩa cho người sử dụng và thông tin gồm nhiều giá trị dữ liệu.
1.2.2. Các đặc tính của thông tin trong doanh nghiệp
Chất lượng của thông tin được xác định thông qua những đặc tính sau:
Độ tin cậy: Độ tin cậy thể hiện các mặt về độ xác thực và độ chính xác.
Thông tin ít độ tin cậy sẽ gây cho tổ chức những hậu quả tồi tệ. Chẳng hạn hệ thống
lập hóa đơn bán hàng có nhiều sai sót, nhiều khách hàng kêu ca về tiền phải trả ghi cao hơn về giá trị hàng đã thực mua sẽ dẫn đến hình ảnh xấu về cửa hàng, lượng khách hàng sẽ giảm và doanh số bán hàng sẽ sụt xuống. Nếu số tiền ghi trên hóa
đơn thấp hơn số tiền phải trả, trong trường hợp này sẽ không co khách hàng nào than phiền tuy nhiên cửa hàng bị thất thu.
Tính đầy đủ: Tính đầy đủ của thông tin thể hiện sự bao quát các vấn đề
đáp ứng yêu cầu của nhà quản lý. Nhà quản lý sử dụng một thông tin không đầy đủ có thể dẫn đến các quyết định và hành động không đáp ứng với đòi hỏi của tình
hình thực tế. Chẳng hạn một nhà sản xuất ghế tựa yêu cầu báo cáo về số lượng ghế làm ra mỗi tuần. Để so sánh, báo cáo cũng có nêu ra số lượng ghế làm ra của tuần trước và của cùng kỳ năm trước đó. Ông chủ thấy số lượng ghế làm ra tăng đều và có thể sẽ cho rằng tình hình sản xuất là tương đối tốt đẹp. Tuy nhiên trong thực tế
có thể hoàn toàn khác. Hệ thống thông tin chỉ cung cấp số lượng ghế sản xuất ra mà không cho biết tý gì về năng suất. Ông chủ sẽ phản ứng ra sao khi trên thực tế số
giờ lao động thêm rất lớn, tỷ lệ nguyên vật liệu hao lớn khi công nhân làm việc quá nhanh. Một sự không đầy đủ về thông tin như vậy sẽ làm hại cho doannh nghiệp.
Tính thích hợp và dễ hiểu: Trong một số trường hợp, nhiều nhà quản lý đã không sử dụng một số báo cáo mặc dù chúng có liên quan tới những hoạt động thuộc trách nhiệm của họ. Nguyên nhân chủ yếu là chúng chưa thích hợp và khó hiểu. Có thể là do quá nhiều thông tin không thích ứng cho người nhận, thiếu rõ ràng, sử dụng quá nhiều từ viết tắt hay đa nghĩa, hoặc sự bố trí chưa hợp lý của các phần tử thông tin. Điều đó dẫn tới hoặc là tổn phí do tạo ra những thông tin không dùng, hoặc là ra các quyết định sai vì hiểu sai thông tin.
Tính an toàn: Thông tin phải được bảo vệ và chỉ những người được quyền mới được phép tiếp cận tới thông tin. Sự thiếu an toàn về thông tin cũng có thể gây ra những thiệt hại to lớn cho tổ chức.
Tính kịp thời: Thông tin có thể là tin cậy, dễ hiểu, thích ứng và được bảo vệ nhưng vẫn không có ích khi nó không được gửi tới người sử dụng vào lúc cần thiết.
1.2.3. Phân loại thông tin trong doanh nghiệp
Ba cấp quản lý trong một tổ chức
Người ta thường chia Tổ chức thành ba mức quản lý có tên là : Lập kế hoạch chiến lược, kiểm soát quản lý chiến thuật và điều hành tác nghiệp.
Mức chiến lược có nhiệm vụ xác định mục đích, mục tiêu và nhiệm vụ của tổ chức. Từ đó họ thiết lập các chính sách chung và những đường lối. Trong một
doanh nghiệp sản xuất thông thường các nhà quản lý như: Chủ tịch – Tổng giám đốc hoặc các phó chủ tịch thuộc mức quản lý này.
Mức chiến thuật thuộc mức kiểm soát quản lý, có nghĩa là nơi dùng các phương tiện cụ thể để thực hiện các mục tiêu chiến lược được đặt ra ở mức cao hơn. Trong một doanh nghiệp thông thường các nhà quản lý như: Trưởng phòng tổ chức, chưởng phòng tài vụ, … nằm ở mức quản lý này.
Mức điều hành tác nghiệp quản lý việc sử dụng sao cho có hiệu quả và hiệu lực những phương tiện và nguồn lực để tiến hành tốt các công việc của tổ chức nhưng phải tuân thủ những ràng buộc về tài chính, thời gian và kỹ thuật. Những người trông coi kho dự trữ, trưởng nhóm, đốc công của những đội sản xuất … thuộc mức quản lý này.
Cần lưu ý rằng một tổ chức không chỉ có các bộ phận ở ba mức quản lý như trên đã trình bày mới sử dụng và tạo ra thông tin. Còn có các bộ phận ở mức thứ tư. Tuy nhiên mức này không có trách nhiệm quản lý. Nó được cấu thành từ tất cả những hoạt động chế biến thông tin mà nhờ đó tổ chức thực hiện những nhiệm vụ của mình. Ví dụ nhân viên kế toán, nhân viên kiểm kê, công nhân sản xuất … thuộc mức này.
Tương ứng với ba mức quản lý của tổ chức thì quyết định trong một tổ chức cũng được chia làm ba loại: quyết định chiến lược, quyết định chiến thuật và quyết định tác nghiệp.
Quyết định chiến lƣợc là những quyết định xác định mục tiêu và những quyết định xây dựng nguồn lực cho tổ chức.
Quyết định chiến thuật là những quyết định cụ thể hóa mục tiêu thành nhiệm vụ, những quyết định kiểm soát và khai thác tối ưu nguồn lực.
Quyết định tác nghiệp là những quyết định nhằm thực thi nhiệm vụ.
Các loại thông tin quản lý trong một doanh nghiệp
Cán bộ quản lý trong các cấp ( mức ) khác nhau cần thông tin cho quản lý khác nhau. Việc ra quyết định khác nhau cần thông tin khác nhau. Điều này được thể hiện qua cách định nghĩa về thông tin quản lý như sau: Thông tin quản lý là thông tin mà có ít nhất một cán bộ quản lý cần hoặc có ý muốn dùng vào việc ra quyết định quản lý của mình. Thông tin quản lý trong một tổ chức được chia làm ba loại: Thông tin chiến lược, thông tin chiến thuật và thông tin tác nghiệp.
Thông tin chiến lược: là những thông tin sử dụng cho mục tiêu dài hạn của một doanh nghiệp. Nó là mối quan tâm chủ yếu của những nhà chiến lược cấp cao. Nó bao gồm những thông tin về tiềm năng của thị trường, cách thâm nhập thị trường, chi phí cho nguyên vật liệu, việc phát triển sản phẩm, những thay đổi về năng suất
lao động và các công nghệ mới phát sinh. Về bản chất, thông tin chiến lược là những thông tin liên quan tới việc lâp kế hoạch lâu dài, thiết lập các dự án, và đưa ra những dự báo cho sự phát triển tương lai.
Thông tin chiến thuật: là những thông tin sử dụng cho mục tiêu ngắn hạn ( một tháng hoặc một năm ), và thường là mối quan tâm chủ yếu của các phòng ban. Đó là những thông tin từ kết quả phân tích số liệu bán hàng, đánh giá dòng tiền dự án, yêu cầu nguồn lực cho sản xuất, và các báo cáo tài chính hàng năm. Dạng thông tin này thường xuất phát từ những dữ liệu của hoạt động hàng ngày. Do đó, nó đòi hỏi một quá trình xử lý thông tin hợp lý và chính xác. Trong việc lập kế hoạch hành động chiến thuật, cần phải kết hợp nhiều thông tin từ các nguồn khác nhau trước khi đưa ra quyết định.
Thông tin điều hành ( tác nghiệp ): là những thông tin sử dụng cho những công việc ngắn hạn diễn ra trong vài ngày thậm chí vài giờ trong một phòng ban nào đó. Nó bao gồm thông tin về số lượng chứng khoán mà doanh nghiệp đang có trong tay, về lượng đơn đặt hàng, về tiến độ công việc, … Thông tin điều hành về bản chất được rút ra một cách nhanh chóng từ dữ liệu về các hoạt động. Bảng 1.2 mô tả tính chất của thông tin theo cấp quyết định.
Bảng 1.2. Tính chất của thông tin theo cấp quyết định
Đặc trƣng
thông tin Tác nghiệp Chiến thuật Chiến lƣợc
Tần suất Đều đặn lặp lại Phần lớn là thường kỳ, đều đặn Sau một thời kỳ dài,
trong trường hợp đặc biệt
Tính độc lập
của kết quả Dự kiến trước
được Dự đoán sơ bộ có
thông tin bất ngờ Chủ yếu không dự đoán
trước được
Thời điểm Quá khứ và hiện tại Hiện tại và tương lai Dự đoán cho tương lai là
chính
Mức chi tiết Rất chi tiết Tổng hợp,
thống kê Tổng hợp, khái quát
Nguồn Trong tổ chức Trong và ngoài
tổ chức Ngoài tổ chức là chủ yếu
Tính cấu trúc Cấu trúc cao Chủ yếu có cấu
trúc, một số phi cấu
trúc Phi cấu trúc cao
Độ chính xác Rất chính xác Một số dữ liệu có
tính chủ quan Mang nhiều tính chủ
quan
Người sử dụng Giám sát hoạt
động tác nghiệp Người quản lý cấp
trung gian Người quản lý cấp cao
1.2.4. Các nguồn thông tin của doanh nghiệp
Thông tin được sử dụng trong các doanh nghiệp được thu thập từ hai nguồn chủ yếu: nguồn thông tin bên ngoài và nguồn thông tin bên trong.
Nguồn thông tin bên ngoài: Để có một cái nhìn khái quát về nguồn thông
tin bên ngoài cho một tổ chức hãy xem xét Hình 1.1.
Về các đầu mối trong sơ đồ:
- Nhà nước và cấp trên. Một tổ chức trong một quốc gia phải chịu sự quản lý của nhà nước. Mọi thông tin mang tính định hướng của nhà nước và cấp
trên đối với một tổ chức như luật thuế, luật môi trường, quy chế bảo hộ v.v… là những thông tin mà bất kỳ một tổ chức nào cũng phải lưu trữ và sử dụng thường xuyên.
- Khách hàng. Trong nền kinh tế thị trường thì thông tin về khách hàng là vô
cùng quan trọng. Việc tổ chức thu thập, lưu trữ và khai thác thông tin về khách hàng như thế nào là một trong những nhiệm vụ lớn của một doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp cạnh tranh. Biết về đối thủ cạnh tranh trực tiếp là công việc hàng ngày của các doanh nghiệp hiện nay.
- Doanh nghiệp có liên quan. Là các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa có liên quan ( hàng hóa bổ sung hoặc hàng hóa có thay thế ).
- Doanh nghiệp sẽ cạnh tranh. Muốn doanh nghiệp tồn tại trong thời gian dài, nhà quản lý cần phải có những thông tin về đối thủ sẽ xuất hiện trong tương lai – các doanh nghiệp sẽ cạnh tranh.
- Các nhà cung cấp. Thông tin về các nhà cung cấp sẽ giúp doanh nghiệp hoạch định được kế sách phát triển cũng như sự kiểm soát tốt chi phí và chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình.
Nhà nước và cấp trên
Khách hàng
DOANH NGHIỆP
Hệ thống quản lý
Đối tượng quản lý
Doanh nghiệp cạnh tranh
Doanh nghiệp
có liên quan
Doanh nghiệp sẽ cạnh tranh
Nhà cung cấp
Hình 1.1. Các nguồn thông tin bên ngoài doanh nghiệp
Nguồn thông tin thu thập từ bên ngoài doanh nghiệp được cung cấp thông qua báo chí, tài liệu của các tổ chức cung cấp thông tin, hoặc qua điều tra khảo sát trực tiếp các đối tượng của doanh nghiệp …
Nguồn thông tin trong nôi tại doanh nghiệp: Ngoài nguồn thông tin bên ngoài, doanh nghiệp còn có một nguồn thông tin quan trọng từ hệ thống sổ sách và
các báo cáo kinh doanh thường kỳ của doanh nghiệp.
Tùy theo từng loại yêu cầu thông tin khác nhau, người ta sẽ tiến hành những bước xử lý dữ liệu khác nhau, và do đó, hình thành những hệ thống thông tin với
các dạng khác nhau, phục vụ những mục tiêu đa dạng và có những đặc tả khác nhau
về phần cứng, phần mềm, cũng như về người sử dụng và điều hành.
1.3. Hệ thống thông tin quản lý
1.3.1. Khái niệm hệ thống
Hệ thống là một tập hợp các phần tử tương tác được tổ chức nhằm thực hiện
một mục đích xác định.
Các phần tử ở đây là tập hợp các phương tiện vật chất và nhân lực
Hệ thống con bản thân nó cũng là một hệ thống nhưng là thành phần của một hệ thống khác. Những hệ thống mà chúng ta đang xem xét thực chất đề là các hệ thống con nằm trong một hệ thống khác và đồng thời cũng chứa các hệ thống con khác thực hiện những nhiệm vụ khác nhaucủa công việc. Việc hiểu được bất cứ một hệ thống đặc biệt nào đó thường đòi hỏi chúng ta phải có được một số kiến thức lớn mà nó phục vụ.
Những yếu tố cơ bản của một hệ thống gồm:
Mục đích: chính là lý do mà hệ thống tồn tại và là một tiêu chí được sử dụng khi đánh giá mức độ thành công của hệ thống.
Phạm vi: Nhằm xác định những gì nằm trong hệ thống và những gì nằm ngoài hệ thống.
Môi trường: bao gồm tất cả những yếu tố nằm ngoài hệ thống.
Đầu vào : là những đối tượng và thông tin từ môi trường bên ngoài hệ thống được đưa vào hệ thống.
Đầu ra: là những đối tượng oặc những thông tin được đưa từ hệ thống ra môi trường bên ngoài.
1.3.2. Hệ thống thông tin quản lý
Hệ thống thông tin quản lý là một tập hợp những con người, các thiết bị
phần cứng, phần mềm, dữ liệu … thực hiện việc thu thập, xử lý, lưu trữ và cung cấp thông tin hỗ trợ việc ra quyết định, điều khiển phân tích các vấn đề, và hiển thị các
vấn đề phức tạp trong một tổ chức.
Hệ thống thông tin có thể bao gồm những thông tin cụ thể và đặc biệt về một con người, về các địa điểm khác nhau, về các sự kiện bên trong một tổ chức hoặc trong một môi trường xung quanh đó.
Nguồn
Đích
Thu thập Xử lý và lưu trữ Cung cấp
Phản hồi
Hình 1.2. Các chức năng chính của hệ thống thông tin
Những hoạt động chủ yếu xảy ra trong một hệ thống thông tin gồm những nhóm chính như sau:
- Thu thập dữ liệu: Là hoạt động thu thập và nhận dữ liệu từ trong một tổ chức doanh nghiệp hoặc từ môi trường bên ngoài để xử lý trong một hệ thống thông tin.
- Xử lý thông tin: Là quá trình chuyển đổi từ những dữ liệu đầu vào thành dạng có ý nghĩa đối với người sử dụng.
- Cung cấp thông tin: sợ phân phối các thông tin đã được xử lý tới những
người hoặc những hoạt động cần sử dụng thông tin đó.
- Lưu trữ thông tin: Các thông tin cần được lưu trữ để sử dụng trong tương lai, khi tiến hành phân tích để xây dựng các kế hoạch mới hoặc đưa ra các quyết
định có tính hệ thống khi cần vẫn được sử dụng.
- Thông tin phản hồi: Là những thông tin xuất, giúp cho bản thân những người điều hành mạng lưới thông tin có thể đánh giá lại và hoàn thiện quá trình thu thập và xử lý dữ liệu mà họ đang thực hiện.
Lưu ý, hệ thống thông tin không nhất thiết phải cần đến máy tính – mặc dù ngày nay công nghệ thông tin giúp vận hành các hệ thống thông tin hiệu quả hơn nhiều. Hệ thống thông tin thủ công có thể sử dụng giấy và bút, và vẫn được sử dụng rộng rãi trong doanh nghiệp Việt Nam hiện nay. Hệ thống thông tin vi tính dựa vào công nghệ phần cứng và phần mềm máy tính để xử lý và phổ biến thông tin. Trong giáo trình này, khi sử dụng cụm từ hệ thống thông tin, chúng ta chỉ nhác tới hệ
thống thông tin vi tính.
Ở đây cần phân biệt rõ máy tính và chương trình vi tính với hệ thống thông tin. Các máy tính điện tử và các chương trình phần mềm là nền tảng kỹ thuật, công cụ và nguyên liệu cho hệ thống thông tin hiện đại. Máy tính là thiết bị lưu trữ và xử lý thông tin. Các chương trình vi tính, hay phần mềm, là tập hợp các chỉ thị nhằm hướng dẫn và điều khiển xử lý máy tính. Tìm hiểu hoạt động của máy tính và các chương trình đóng vai trò rất quan trọng trong việc thiết kế giải pháp cho các vấn đề của doanh nghiệp, nhưng máy tính chỉ là một phần của hệ thống thông tin.
Máy tính và các chương trình là những yếu tố không thể thiếu của hệ thống thông tin vi tính, nhưng chỉ bản thân chúng thôi không thể tạo ra được thông tin mà doanh nghiệp cần. Để tìm hiểu về hệ thống thông tin, ta cần phải nắm được các vấn đề cần giải quyết, các quy trình thiết kế và triển khai, và các quy trình đưa ra giải pháp. Các nhà quản lý hiện đại cần phải biết phối hợp những hiểu biết về máy tính với kiến thức về công nghệ thông tin.
1.4. Phân loại các hệ thống thông tin quản lý
Do có những mục đích khác nhau, các đặc tính và các cấp quản lý khác nhau, nên có rất nhiều loại hệ thống thông tin tồn tại trong tổ chức. Các hệ thống thông tin trong tổ chức có thể phân loại theo các phương thức khác nhau.
1.4.1. Phân loại theo cấp ứng dụng
Theo cách phân loại này có bốn loại hệ thống thông tin:
- Hệ thống thông tin cấp tác nghiệp: trợ giúp các cấp quản lý bậc thấp như trưởng nhóm, quản đốc …trong việc theo dõi các hoạt động và giao dịch cơ bản của
doanh nghiệp như bán hàng, hóa đơn, tiền mặt, tiền lương, phê duyệt vay nợ và lưu thông nguyên vật liệu trong nhà máy. Mục đích chính của hệ thống ở cấp này là để
trả lời cho các câu hỏi thông thường và giám sát lưu lượng giao dịch trong doanh nghiệp. Còn bao nhiêu sản phẩm tồn kho? Anh X đã lĩnh lương chưa? Để trả lời những câu hỏi dạng này, thông tin thường phải chính xác, cập nhật thường xuyên, và dễ sử dụng. Ví dụ về hệ thống thông tin thuộc loại này bao gồm: hệ thống lưu các khoản tiền rút khỏi tài khoản ngân hàng từ một máy rút tiền tự động (ATM), hoặc hệ thống theo dõi giờ làm việc của công nhân tại nhà máy.
- Hệ thống thông tin cấp chuyên gia: cung cấp kiến thức và dữ liệu cho những người nghiên cứu trong một tổ chức. Mục đích của hệ thống này là giúp đỡ các doanh nghiệp phát triển các kiến thức mới, thiết kế sản phẩm, phân phối thông tin, và xử lý các công việc hàng ngày trong doanh nghiệp.
- Hệ thống thông tin cấp chiến thuật: được thiết kế nhằm hỗ trợ điều khiển quản lý, tạo quyết định và tiến hành các hoạt động của các nhà quản lý cấp trung gian. Quan trọng là hệ thống cần giúp các nhà quản lý đánh giá được tình trạng làm
việc xem có đang trong tình trạng tốt hay không. Ở cấp này các thông tin cung cấp chủ yếu thông qua báo cáo hàng tháng, hàng quý, hàng năm … Các hệ thống cấp chiến thuật thường cung cấp báo cáo định kỳ hơn là thông tin về các hoạt động. Ví dụ hệ thống thông tin quản lý công tác phí báo cáo về toàn bộ chi phí đi lại, ăn ở, tiếp khách của nhân viên các phòng ban của công ty, đánh dấu những trường hợp mà chi phí thực vượt quá ngân quỹ.
Một số cấp chiến thuật hỗ trợ cho các quyết định bất thường. Chúng thường
giải quyết các vấn đề ít có cấu trúc hơn, những yêu cầu về thông tin cũng ít rõ ràng hơn. Các hệ thống loại này thường trả lời câu hỏi dạng “nếu-thì”: Nếu chúng ta tăng gấp đôi doanh số bán ra vào tháng 12 thì sẽ ảnh hưởng tới lịch trình sản xuất như
thế nào? Nếu hoạt động của nhà máy bị đình chỉ lại 6 tháng thì điều gì sẽ xảy ra với việc thu hồi vốn đầu tư? Trả lời những câu hỏi này đòi hỏi nhiều dữ liệu từ bên ngoài doanh nghiệp, cũng như dữ liệu nội bộ không dễ truy nhập được từ các hệ thống tác nghiệp thông thường.
- Hệ thống thông tin cấp chiến lược: giúp các nhà quản lý cấp cao xử lý và đưa ra các hướng chiến lược cũng như các xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Mục tiêu của hệ thống thông tin là giúp cho doanh nhgiệp có khả năng thích ứng tốt nhất với những thay đổi trong môi trường. Những câu hỏi họ đặt ra tương tự như: Doanh nghiệp cần tuyển thêm bao nhiêu nhân công trong vòng 5 năm tới? Xu hướng giá thành nguyên liệu đầu vào về lâu dài sẽ là gì, và công ty sẽ chịu được chi phí nào? Nên sản xuất sản phẩm nào sau 5 năm tới?
1.4.2. Phân loại theo mục đích phục vụ của thông tin đầu ra
Ngoài cách phân lọa trên, còn có thể phân loại hệ thống thông tin theo mục
đích phục vụ của thông tin đầu ra.
1.4.2.1. Hệ thống thông tin xử lý giao dịch
Hệ thống thông tin xử lý giao dịch( Transaction Processing System – TPS ) là hệ thống thông tin giúp thi hành và lưu lại những giao dịch thông thường hàng ngày cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Ví dụ: nhập đơn đặt hàng, đặt
phòng khách sạn, bảng lương, lưu hồ sơ nhân viên, và vận chuyển vật tư. Chúng trợ giúp chủ yếu cho các hoạt động ở mức tác nghiệp. Những hệ thống thuộc loại này
bao gồm: hệ thống trả lương, hệ thống lập đơn đặt hàng, làm hóa đơn, theo dõi khách hàng, theo dõi nhà cung cấp, cập nhật tài khoản ngân hàng, hệ thống tính thuế phải trả của người nộ thuế …
Hệ thống xử lý giao dịch thường đóng vai trò chủ chốt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, đến nỗi sự cố của TPS trong vòng ít giờ đồng hồ có thể gây thiệt hại nặng nề cho công ty và còn có thể ảnh hưởng tiêu cự đến các công ty khác.
1.4.2.2. Hệ thống thông tin phục vụ quản lý
Hệ thống thông tin ( Management Information System – MIS ): phục vụ các
hoạt động quản lý của tổ chức. Các hoạt động này nằm ở mức điều khiển tác
nghiệp, điều khiển quản lý hoặc lập kế hoạch chiến lược. Chúng chủ yếu dựa vào các cơ sở dữ liệu được tạo ra bởi các hệ xử lý giao dịch cũng như từ các nguồn dữ liệu ngoài tổ chức. Do các hê thống thông tin quản lý phần lớn dựa vào các dữ liệu sản sinh từ các hệ xử lý giao dịch, chất lượng thông tin mà chúng sản sinh ra phụ thuộc nhiều vào quá trình vân hành của hệ xử lý giao dịch. Thông thường hệ thống chỉ quản lý các sự kiện nội bộ. MIS chủ yếu phục vụ các chức năng lập kế hoạch giám sát và ra quyết định ở cấp quản lý.
MIS thường phục vụ các nhà quản lý quan tâm tới những kết quả hàng tuần, hàng tháng hay hàng năm – chứ không phải là các hoạt động hàng ngày. MIS cung cấp câu trả lời cho các câu hỏi thông thường đã được định trước và có một quy định trước để trả lời chúng. Ví dụ, báo cáo MIS lập danh sách tổng khối lượng đường được sử dụng ở quý này bởi một mạng lưới quán cà phê, hoặc so sánh tổng doanh
số hàng năm của một số sản phẩm so với mục tiêu đề ra. Hệ thống phân tích năng lực bán hàng, theo dõi chi tiêu, theo dõi năng suất, nghiên cứu thông tin về thị
trường .
Các hệ thống này thường không linh hoạt và ít có khả năng phân tích. Phần lớn các MIS sử dụng các kỹ năng đơn giản như tổng kết và so sánh chứ không phải các phương pháp toán học phức tạp hay thuật toán thống kê.
1.4.2.3. Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định
Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định ( Decision Support System – DSS) là
hệ thống trợ giúp các hoạt động ra quyết định. Về nguyên tắc, một hệ thống trợ giúp
ra quyết định phải cung cấp thông tin cho phép người ra quyết định xác định rõ tình hình mà một quyết định cần phải ra. Thêm vào đó, nó còn phải có khả năng mô hình hóa để có thể phân lớp và đánh giá các giải pháp. Đây là một hệ thống đối thoại có khả năng tiếp cận một hoặc nhiều cơ sở dữ liệu và sử dụng một hoặc nhiều mô hình để biểu diễn và đánh giá tình hình.
1.4.2.4. Hệ thống thông tin hỗ trợ điều hành
Hệ thống thông tin hỗ trợ điều hành (Executive support System – ESS) tạo ra
một môi trường khai thác thông tin chung chứ không cung cấp bất cứ ứng dụng hay chức năng cụ thể nào. ESS được thiết kế để tổng hợp dữ liệu cả về những sư kiện bên ngoài như các quy định thuế mới hay các động thái của các đối thủ cạnh tranh, và cả những thông tin tổng hợp từ hệ thống nội bộ MIS và DSS. Hệ thống sàng lọc, đúc kết và chỉ ra những dữ liệu chủ chốt, giảm thiểu thời gian và công sức để nắm
bắt thông tin hữu ích cho các lãnh đạo. ESS sử dụng phần mềm đồ họa tiên tiến nhất
và có thể chuyển tải đồng thời các biểu đồ và dữ liệu từ nhiều nguồn khác nhau tới cấp lãnh đạo.
Không giống các loại hệ thống thông tin khác, ESS không được thiết kế
riêng cho các vấn đề cụ thể. Thay vào đó, ESS cung cấp các công cụ để tổng hợp dữ liệu, theo dõi, ước lượng các xu thế tùy theo yêu cầu của người sử dụng. Trong khi cacs DSS có tính phân tích ca, thì ESS ít sử dụng các mô hình phân tích. ESS giúp
trả lời các câu hỏi như: doanh nghiệp nên phát triển lĩnh vực kinh doanh nào? Các đối thủ cạnh tranh đang làm gì? Cần phải sát nhập doanh nghiệp với công ty nào khác để đối phó với những thay đổi trên thị trường? ESS được thiết kế chủ yếu cho cấp lãnh đạo cấp cao nhất. Do đó chúng tập hợp các giao diện đồ họa dễ sử dụng.
1.4.2.5. Hệ thống chuyên gia
Hệ thống chuyên gia (Expert System – ES) là những hệ thống cơ sở trí tuệ nhân tạo, có nguồn gốc từ nghiên cứu về trí tuệ nhân tạo, trong đó có sự biểu diễn
bằng các công cụ tin học những tri thức của một chuyên gia về một lĩnh vực nào đó. Hệ thống chuyên gia được hình thành bởi một cơ sở trí tuệ và một hệ động cơ suy diễn. Có thể xem lĩnh vực hệ thống chuyên gia như mở rộng của những hệ thống
đối thoại trợ giúp ra quyết định có tính chuyên gia hoặc như một cơ sở tiếp nối của lĩnh vực hệ thống trợ giúp ra quyết định có tính chất chuyên gia hoặc như một sự tiếp nối của lĩnh vực hệ thống trợ giúp lao động trí tuệ.
Hệ thống cung cấp tri thức ( Knowledge Working System – KWS ) và hệ
thống tự động hóa văn phòng ( Office Automated System – OAS ) phục vụ nhu cầu ở cấp chuyên gia của doanh nghiệp. KWS hỗ trợ lao động tri thức, còn OAS giúp ích cho lao động dữ liệu ( mặc dù chúng cũng được sử dụng rộng rãi bởi lao động
trí thức ).
Lao động tri thức ( knownledge worker ) là những nhân công có trình độ cao và thường thuộc những ngành nghề được thừa nhận như: kỹ sư, bác sỹ, luật sư và nhà khoa học. Công việc của họ bao gồm tạo ra thông tin và kiến thức mới. Ví dụ
về KWS có thể là hệ thống hỗ trợ thiết kế kiến trúc hay cơ khí ( CAD ), hệ thốn phân tích chứng khoán, hệ thống phát triển phần mềm …
Các hệ thống tự động hóa văn phòng là những ứng dụng được thiết kế nhằm
hỗ trợ các công việc phối hợp và liên lạc trong văn phòng. Hệ thống văn phòng liên kết các lao động tri thức, các đơn vị, các bộ phận chức năng. Hệ thống này giúp liên hệ với khách hàng, nhà cung cấp và các tổ chức khác ở bên ngoài công ty, và phục vụ như một kho xử lý thông tin và kiến thức.
Các hệ thống tự động hóa văn phòng giúp quản lý văn bản thông qua chức năng xử lý văn bản, chế bản điện tử, nhận diện văn bản và quản lý tập tin; giúp quản lý thời gian biểu qua chức năng lịch điện tử; và giúp liên lạc thông qua thư điện tử, hay các chức năng truyền giọng nói và hình ảnh qua mạng.
1.4.2.6. Mối quan hệ giữa các hệ thống nói trên
Hình 1.2 thể hiện mối liên hệ giữa các hệ thống phục vụ các cấp khác nhau trong doanh nghiệp. TPS là nguồn dữ liệu chủ yếu cho các hệ thống khác trong khi
ESS là nơi tiếp nhận dữ liệu từ những hệ thống thấp hơn. Các lọa hệ thống còn lại cũng có thể trao đổi dữ liệu với nhau. Dữ liệu còn có thể được trao đổi giữa các hệ
thống phục vụ những bộ phận chức năng khác nhau. Ví dụ: một đơn đặt hàng lưu ở hệ thống bán hàng có thể được chuyển tới hệ thống sản xuất trở thành một giao dịch cho việc sản xuất và vận chuyển sản phẩm được yêu cầu trong đặt hàng, hoặc tới một MIS cho việc báo cáo tài chính.
Rõ ràng, sự kết hợp giữa các hệ thống này đem lại lợi ích khá lớn vì thông tin có thể lưu chuyển dễ dàng giữa các bộ phận khác nhau của doanh nghiệp, và cùng một dữ
liệu không phải nhập nhiều lần vào các hệ thống khác nhau. Tuy nhiên, việc tích hợp hệ thống rất phức tạp, chi phí cao và mất thời gian. Do vậy, mỗi doanh nghiệp
cần phải cân nhắc kỹ giữa nhu cầu tích hợp hệ thống của mình và những khó khăn
sẽ nảy sinh khi đáp ứng nhu cầu đó.
Hệ thống hỗ trợ điều hành (ESS)
Hệ thống phục vụ quản lý (MIS)
Hệ thống hỗ trợ ra quyết định (DSS)
Hệ thống chuyên gia (KWS& OAS)
Hệ thống xử lý giao dịch (TPS)
Hình 1.3. Mối quan hệ giữa các hệ thống thông tin
1.4.3. Phân loại theo chức năng nghiệp vụ
1.5. Vai trò và tác động của hệ thống thông tin trong doanh nghiệp
Hiện nay hệ thống thông tin có thể đóng một vai trò chiến lược trong một tổ
chức. Doanh nghiệp sử dụng hệ thống thông tin ở mọi cấp quản lý trong doanh nghiệp. Không những chỉ đóng vai trò là người cung cấp báo cáo liên tục và chính xác, mà hơn thế nữa, các hệ thống thông tin đã thực sự trở thành một công cụ, một vũ khí chiến lược để các doanh nghiệp dành được ưu thế cạnh tranh trên thị trường và duy trì những thế mạnh sẵn có.
Sau đây là những ảnh hưởng quan trọng của hệ thống thông tin quản lý giúp các doanh nghiệp có được những ưu thế cạnh tranh mà họ mong muốn:
Đầu tư vào công nghệ thông tin sẽ giúp quá trình điều hành của doanh nghiệp trở nên hiệu quả hơn
Xây dựng hệ thống thông tin sẽ giúp các doanh nghiệp có được lợi thế cạnh tranh bằng cách xây dựng mối quan hệ chặt chẽ với khách hàng và những
người cung cấp nguyên vật liệu.
Khuyến khích các hoạt động sáng tạo trong doanh nghiệp. Đó là quá trình phát triển sản phẩm mới, dịch vụ mới và các quá trình sản xuất hoặc các hoạt động mới trong doanh nghiệp. Việc này có thể tạo ra các cơ hội kinh doanh hoặc các thị trường mới cho doanh nghiệp.
Một trong những vấn đề cần nhấn mạnh ở đây là việc tạo thành các chi phí chuyển đổi trong mối quan hệ giữa doanh nghiệp vớikhách hàng hoặc người cung cấp của nó. Điều đó có nghĩa là, khách hàng hoặc người cung cấp hàng bị gắn chặt vào các thay đổi công nghệ bên trong doanh nghiệp, và họ sẽ
phải chịu những chi phí về thời gian, tiền bạc và cả sự không thuận tiện nếu
họ chuyển sang sử dụng hoặc cung cấp sản phẩm cho một doanh nghiệp khác. Việc các hãng hàng không đầu tư xây dựng hệ thống thông tin trong hãng một cách hoàn hảo và do đó trợ giúp cho hệ thống đặt vé tự động của mình chính là một biểu hiện của việc đầu tư vào hệ thống thông tin đã đem lại ưu thế cạnh tranh cho các hãng này.
Đầu tư vào công nghệ thông tin còn có khả năng tạo ra một số dạng hoạt động mới của doanh nghiệp.
1.6. Xu hướng phát triển của hệ thống thông tin
Trên thế giới cũng như ở Việt Nam, các doanh nghiệp đang có xu hướng đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin. Mới trước đây 10 năm, các doanh nghiệp Việt Nam hầu như còn hết sức xa lạ với cái gọi là sử dụng hệ thống thông tin cho mục đích quản lý. Chỉ có một số các ông chủ doanh nghiệp giàu có sử dụng hệ thống máy tính như một vật trưng bày để khuyếch trương thanh thế doanh nghiệp. Nhưng giờ đây, đó không còn là điều mới mẻ nữa mà phần nào đã trở thành công cụ không thể thiếu trong công tác quản lý ở mọi cơ quan khác nhau, từ các cơ quan hành chính sự nghiệp tới các cơ quan trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất, kinh doanh tạo ra của cải vật chất cho toàn xã hội. Các doanh nghiệp đã cảm nhận được những lợi ích của việc sử dụng máy tính trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, và
để lưu trữ khai thác, xử lý những thông tin sẵn có trong doanh nghiệp.
Trong khoảng vài năm trở lại đây, không chỉ có các hệ thống máy tính cục
bộ lên ngôi mà ở Việt Nam đã xuất hiện hệ thống mạng thông tin quốc tế - Internet.
Việc sử dụng Internet đã giúp cho các doanh nghiệp tăng khả năng kinh doanh nên
rất nhiều và đó là một trong những nguyên nhân chính thúc đẩy một nước còn lạc hậu về trang thiết bị và kỹ thuật như nước ta đầu tư vào phát triển hệ thống truyền tin qua mạng Internet.
Những lý do mà mạng Internet có thể giúp cho doanh nghiệp tăng khả năng
kinh doanh là:
Internet có khả năng trao đổi thông tin nhanh chóng từ nơi này tới nơi khác, giúp cho các doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia có khả năng thiết lập hệ thống liên lạc và trao đổi những kế hoạch hành động một cách nhanh chóng và đúng lúc.
Internet là mạng lưới tiếp thị lớn nhất mà ngày nay các doanh nghiệp có thể sử dụng để tiếp cận các khách hàng trực tiếp và gián tiếp của mình ở mọi nơi trên thế giới.
------------------ *** -------------------
Chƣơng 2: CÁC THÀNH PHẦN CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG THÔNG TIN
2.1. Phần cứng
2.1.1. Máy tính điện tử
Máy tính điện tử (Computer System ) là tập hợp các bộ phận để thực hiện
các nhiệm vụ nhập dữ liệu vào, xử lý dữ liệu, đưa dữ liệu ra, lưu trữ thông tin và kiểm soát, điều khiển các hoạt động đó.
CÁC THIẾT BỊ VÀO
Nhập dữ liệu và chương trình
vào máy tính
BỘ XỬ LÝ BỘ LOGIC LỆNH VÀ SỐ HỌC Thực hiện chỉ Thực hiện các
thị và điều phép toán số
khiển xử lý học và so sán1/1/2002h
BỘ NHỚ TRONG Lưu trữ dữ liệu và các chương trình trong thời
gian xử lý
CÁC THIẾT BỊ VÀO RA Đưa thông tin trong máy ra
THIẾT BỊ NHỚ
NGOÀI
Lưu trữ dữ liệu và chương trình cho các công việc xử lý
Hình 1.4 sơ đồ chức năng của máy tính điện tử.
Bộ xử lý trung tâm ( CPU - Control Processing Unit ) là một phần của hệ thống máy tính, giúp xử lý các biểu tượng, chữ số chữ cái, đồng thời điều khiển các bộ phận khác của hệ thống.
CPU gồm bộ xử lý lệnh và bộ logic và bộ số học. Bộ logic và bộ số học thực
hiện các phép tính số học và logic cơ bản của máy tính như cộng, trừ, nhân và chia để xác định một số là dương, âm hay bằng 0. Bên cạnh thực hiện các phương trình số học bộ xử lý này phải quyết định khi nào một lượng lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng một lượng khác. Bộ xử lý lệnh phối hợp và điều khiển các thành phần khác của hệ thống máy tính. Bộ điều khiển chứa các chỉ lệnh chương trình và phát tín hiệu để thực hiện chúng. Những chuỗi thao tác cần thiết để xử lý một chỉ lệnh đơn của máy được gọi là chu trình máy.
Một số tính chất về bộ nhớ ( Storage ) Nơi lưu trữ dữ liệu và chương trình xử lý. Bộ nhớ trong có dung lượng tương nhỏ nhưng có tốc độ truy nhập nhanh, giá cả tương đối cao. Bộ nhớ ngoài có dung lượng lớn hơn, tốc độ truy nhập chậm, giá cả tương đối rẻ. Có thể tổng hợp một số đặc trưng của hai loại bộ nhớ như bảng dưới đây:
Bảng 2.1. Đặc trưng của hai loại bộ nhớ
Bộ nhớ
trong –
Internal
Storage Không
có bộ
nhớ chính máy không
chạy được Chế tạo
bằng vật
liệu quý, nhiều tính
năng tốt cho việc ghi nhớ Gắn
cố
định vào bản mạch Truy
cập
thông tin nhanh Dung
lượng nhỏ
tương đối so với bộ nhớ ngoài Nguồn
điện cần
duy trì để lưu trữ thông tin
Bộ nhớ
ngoài – External Storage Có thì
tốt, không có máy vẫn
chạy được Chế tạo
bằng vật liệu ít quý
hiếm hơn Có
thể tháo lắp dễ dàng Truy
cập thông tin
chậm hơn Dung
lượng lớn tương đối so với bộ nhớ trong Thông
tin lưu trữ không
cần nguồn điện
Các thiết bị vào thiết bị ra : con người tương tác với hệ thống máy tính chủ yếu thông qua các thiết bị vào và thiết bị ra. Thiết bị vào tập trung dữ liệu và chuyển đổi chúng thành dạng điện tử để sử dụng bằng máy tính, còn thiết bị ra hiển thị dữ liệu sau khi chúng đã được xử lý. Bảng 2.2 mô tả những thiết bị vào ra chính.
2.1.2. Các loại máy tính
Các máy tính thường biểu diễn và xử lý dữ liệu theo cùng một cách, nhưng có rất nhiều cách phân loại khác nhau. Người ta thường sử dụng kích thước và tốc độ xử lý của các máy tính để phân loại chúng thành: siêu máy tính, máy tính lớn, máy tính mini, và máy vi tính.
Siêu máy tính ( Super computer ): tốc độ và khả năng tính toán rất lớn. Ví
dụ CRAY, ICL …
Máy tính lớn ( Mainframe ): Dùng cho quy mô lớn cấp ngành, bộ. Ví dụ, IBM Enterprise, SYSTEM 9000 …
Máy tính mini (Mini computer ) là loại máy tính được thiết kế đáp ứng yêu cầu công việc cho một công ty nhỏ. Máy tính mini mạnh hơn máy tính cá nhân nhưng không mạnh bằng máy tính lớn. có khoảng từ 4 đến 100 người có thể sử dụng máy tính mini cùng một lúc.
Máy vi tính ( Personal computer ) còn được gọi là máy tính cá nhân, được thiết kế dùng cho một người.
Bảng 2.2. Một số thiết bị vào ra chính.
Thiết bị vào Mô tả
Bàn phím ( Key board ) Cách thức nhập dữ liệu chính.
Chuột ( Moues ) Thiết bị định vị con trỏ.
Màn hình cảm ứng
( Touch screen ) Cho phép nhập một lượng dữ liệu nhất định bằng
cách chạm ngón tay hoặc con trỏ vào màn hình.
Máy quét hình
( Scanner ) Tiến hành số hóa những hình ảnh hoặc văn bản.
Dữ liệu âm thanh vào
( Audio input ) Thiết bị xử lý âm thanh thực hiện số hóa lời nói để xử lý trên máy tính. ( micrô, máy catxet )
Máy đọc mã vạch
(Barcode Reader) Thiết bị đọc mã vạch
Thiết bị ra Mô tả
Máy in ( Printer ) in văn bản hoặc các đồ hình do máy tính tạo ra trên
mặt giấy.
Đầu ra âm thanh
( Audio output ) Thiết bị âm thanh chuyển dữ liệu số thành âm thanh.
Ví dụ: loa nối với máy tính phát nhạc.
Màn hình ( Monitor ) Thiết bị hiển thị thông tin/dữ liệu
2.1.3. Vấn đề chuẩn phần cứng
Khi trang bị thêm một thiết bị phần cứng (máy tính, máy in, …) cần chú ý là các thiết bị phần cứng phải phù hợp với toàn bộ phần cứng đã có sẵn của doanh nghiệp. Những nguyên tắc chính cần phải lưu ý khi mua sắm phần cứng tin học gồm:
Bảo đảm sự tƣơng thích ( compatibility ): Các thiết bị mua mới và đã có phải làm việc được với nhau. Việc mua các thiết bị không tương thích có thể sẽ đòi hỏi doanh nghiệp phải trang bị thêm một số phần mềm hoặc phần cứng khác dùng cho việc chuyển đổi. Ngoài ra chi phí bảo trì cũng có thể sẽ tăng thêm lên.
Bảo đảm khả năng mở rộng và nâng cấp (Extendable & Scalable):
Nhu cầu về năng lực máy tính trong doanh nghiệp tăng không ngừng, dễ dàng vượt
qua năng lực hiện có của các máy móc đang sử dụng. Hơn nữa, công nghệ thông tin
luôn phát triển không ngừng, thường xuyên xuất hiện các phần cứng và phần mềm mới tiện lợi cho các hoạt động đa dạng của doanh nghiệp. Vì vậy khi mua cần xem xét khả năng nâng cấp của phần cứng máy tính để có thể tăng cường khi cần thiết. Việc này sẽ giúp cho doanh nghiệp có thể tăng cường khả năng của hệ thống mà không nhất thiết phải mua mới hoàn toàn các thiết bị.
Độ tin cậy ( Reliability ): Các phần cứng mới thường hấp dẫn người mua
bởi các tính năng mới của nó. Tuy nhiên, nhà quản lý cần lưu ý rằng các lỗi kỹ thuật
thường không bao giờ được nêu ra trong các tờ quảng cáo. Vì vậy, nên tham khảo
các các bài đánh giá sản phẩm mới trên các tạp chí công nghệ thông tin nhằm đảm bảo có một sự lựa chọn phù hợp.
2.1.4. Một số lƣu ý khi mua sắm phần cứng
2.1.4.1. Xác định thời điểm mua sắm
Máy tính cũng như các thiết bị kỹ thuật công nghệ thông tin thường liên tục tăng về năng lực và giảm giá thường xuyên. Hao mòn vô hình của máy vi tính là là
rất lớn. Vòng đời của sản phẩm máy tính giảm liên tục. Việc cứ chờ đợi mãi với ước mong giá rẻ và tính năng cao hơn là sự chờ đợi đến vô cùng và không có đích cuối cùng. Nhà quản lý phải tính toán và quyết định thời điểm mua sắm.
2.1.4.2. Lựa chọn phƣơng án mua sắm phần cứng
Bảng 2.3. Các lựa chọn mua sắm phần cứng
Lợi Bất lợi
Thuê ngắn hạn
- Ủy thác ngắn
- Nguy cơ lạc hậu thấp
- Không yêu cầu đầu tư cao
- Đắt hơn thuê dài hạn
- Có một số nhà cung cấp
không cho thuê máy
Thuê
dài
hạn - Nguy cơ lạc hậu thấp
- Có thể chuyển sang mua đứt
- Có dịch vụ bảo trì kèm theo
- Rẻ hơn thuê ngắn hạn - Không có giá trị còn lại
cho người thuê
Mua
đứt - Có quyền sở hữu tài sản
- Rẻ hơn thuê dài hạn - Yêu cầu đầu tư cao
- phải mất chi phí bảo trì
Nhà quản lý có thể tham khảo bảng phân tích hơn thiệt ở trên để lựa chọn
phương thức mua sắm hợp lý
2.1.4.3. Ra quyết định mua sắm
Đề nghị mua sắm máy tính phải được hình thành ở bộ phận phụ trách HTTT
hoặc xử lý dữ liệu của doanh nghiệp. Sau đó phải được hội đồng về công nghệ
thông tin của doanh nghiệp thông qua.
2.2. Phần mềm
2.2.1. Phần mêm hệ thống
Phần mềm hệ thống là những chương trình giúp cho người sử dụng quản lý, điều hành hoạt động của các thiết bị phần cứng ( máy tính, máy in, máy fax, thiết bị nhớ … ). Nói cách khác, phần mêm hệ thống hoạt động như một bộ phận kết nối giữa máy tính với các chương trình ứng dụng mà người sử dụng muốn thực hiện.
Có các loại phần mêm hệ thống: hệ điều hành, phần mềm tiện ích và phần mềm phát triển.
2.2.1.1. Hệ điều hành
Quản lý tất cả các nguồn lực của hệ thống máy tính và cung cấp giao diện mà thông qua đó người sử dụng có thể sử dụng được các nguồn lực của hệ thống. Hệ điều hành phân bố và sắp xếp tài nguyên của hệ thống, bố trí sử dụng tài nguyên và
lên lịch trình công việc máy tính, và giám sát hoạt động của hệ thống. Hệ điều hành cung cấp chỗ cho bộ trong cho dữ liệu và các chương trình, và kiểm tra các thiết bị vào / ra. Hệ điều hành còn phối hợp công việc ở nhiều khu vực của máy tính để có thể đồng thời làm việc trên các phần công việc khác nhau. Cuối cùng, hệ điều hành giám sát mỗi công việc được làm trên máy tính và có thể còn giám sát cả người đang sử dụng máy tính, chương trình đang chạy và đồng thời giám sát bất kỳ nỗ lực xâm nhập bất hợp pháp nào vào hệ thống.
Những hệ điều hành thường gặp hiện nay bao gồm Window, UNIX, LOTUS.
2.1.2. Phần mềm tiện ích
Bao gồm các chương trình tiện ích cho các nhiệm vụ thông thường và có tính lặp, như sao chép, xóa bộ nhớ trong, tính bình phương một số, hay sắp xếp phân
loại. Chương trình tiện ích có thể được chia sẻ bởi tất cả mọi người sử dụng hệ
thống máy tính cũng như có thể được dùng trong nhiều ứng dụng hệ thống thông tin
khác khi được yêu cầu.
2.1.3. Phần mềm phát triển
Bao gồm các chương trình trợ giúp để tạo ra các phần mềm cho máy tính.
Các ng ôn ngữ lậ p trì nh
Mỗi ngôn ngữ lập trình có các bộ phận :
- Chương trình dịch ngôn ngữ ( compiler ) có chức năng dịch các chương trình viết trong ngôn ngữ lập trình sang chương trình viết trong ngôn ngữ máy.
- Thư viện chương trình ( Library Programs ) là tập hợp các thủ tục hay được
dùng trong các chương trình khác.
- Chương trình liên kết ( Linkage Editor ) được dùng để kết nối chương trình
đã được dịch với các thủ tục từ thư viện để tạo ra thành một chương trình thực hiện được EXE ( Executable ) đối với máy tính.
Lập trình viên Tạo sử dụng
NNLT
Mã nguồn
( Source Code )
Trình dịch
( Compiler )
Chuyển đổi
Mã đích
( Object Code )
Trình thư viện
(Library programs)
Liên kết
( Linkage )
Tạo
Mô đun thực hiện được (EXE)
Quá trình tạo bộ các chỉ thị cho máy tính
Các ngôn ngữ lập trình : Pascal, Basic, C, SQL, FOXPRO …
Các công c ụ lậ p trình c ó sự trợ gi úp của má y tính
CASE ( Computer Aided Sofware Engineering ): giúp tự động hóa lập trình.
Lập trì nh hƣớ ng đối tƣợ ng OOP (Object Oriented Programming )
2.2. 2. Phần mềm ứng dụng
Phần mềm ứng dụng là các chương trình điều khiển máy tính trong việc thực
hiện những nhiệm vụ cụ thể về xử lý thông tin. Có bao nhiêu nhiệm vụ thì sẽ có bấy nhiêu chương trình ứng dụng. Với các máy tính cá nhân số lượng chương trình như vậy đang tăng lên rất nhiều. Có thể chia phần mềm ứng dụng thành hai loại chính
là: phần mềm ứng dụng đa năng và phần mềm ứng dụng chuyên biệt.
2.2.2.1. Phần mềm ứng dụng đa năng
Có thể liệt kê một số phần mềm ứng dụng đa năng như sau:
1. Phần mềm xử lý văn bản.
2. Phần mềmquản lý tệp
3. Bảng tính điện tử.
4. Phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu.
5. Phần mềm quản lý thông tin cá nhân: lịch công tác, danh bạ điện thoại, sổ
ghi chép …
6. Phần mềm đồ họa: Photo 4 …
7. Phần mềm trình diễn đồ họa: Powerpoit.
8. Phần mềm đa phương tiện: trợ giúp liên kết dữ liệu văn bản, hình ảnh và âm thanh trên các thiết bị Video và Audio.
9. Phần mềm thống kê.
10. Phần mềm quản lý dự án.
11. Phần mềm chế bản
12. Phần mềm trợ giáo và huấn luyện: chương trình học đánh máy chữ, học vẽ, học tiếng Anh …
13. Phần mềm trợ giúp thiết kế và chế tạo CAD
14. Phần mềm tự động hóa văn phòng: sổ tay, bảng tính, quản lý tài chính, thư điện tử, fax …
2.2.2.2. Phần mềm ứng dụng chuyên biệt
Bao gồm các phần mềm sử dụng cho các công việc chuyên biệt. Có thể liệt kê sơ bộ một số loại:
1. Phần mềm kế toán.
2. Phần mềm Marketing.
3. Phần mềm quản lý tài chính doanh nghiệp.
4. Phần mềm quản lý sản xuất.
5. Phần mềm quản trị tác nghiệp.
6. Phần mềm quản trị nhân lực.
7. Phần mềm ứng dụng cụ thể trong các khoa học tự nhiên, xã hội …
2.2.3. Lựa chọn phần mềm
Xác định đúng yêu cầu ứng dụng: chọn mua một máy tính không nên bắt đầu từ phần cứng mà cần phải bắt đầu từ việc xác định rõ ràng yêu cầu ứng dụng của mình.
Chọn đúng phần mềm
- Xác định đúng hãng sản xuất phần mềm về công việc cần tới, thông qua quảng cáo hoặc các bài báo nói về dự đoán bán hàng.
- Liên hệ với tác giả các bài viết về phần mềm có liên quan.
- Dùng thử bản đề mô.
Chọn phần cứng cho phù hợp với phần mềm
Sau khi tìm được phần mềm thì tiến hành tìm phần cứng và tìm được hệ điều hành chạy được phần mềm của chúng ta.
2.3. Mạng máy tính
2.3.1. Mạng LAN (Local Area Network - mạng máy tính cục bộ)
- Nối các máy vi tính hay các thiết bị đầu cuối trong một phạm vi địa lý hẹp bằng những đường truyền riêng
- Các thành phần của mạng LAN
Máy trạm (Workstation): thông thường là máy vi tính được nối vào mạng
Máy chủ tệp (File Server): là một máy tính đủ mạnh, thường có dung lượng đĩa tương đối lớn để chứa các tệp dùng chung trên toàn mạng. Nếu các tệp được tổ chức thành cơ sở dữ liệu thì gọi là máy chủ cơ sở dữ liệu.
Máy chủ in ấn (Printer Server): là máy tính có nhiệm vụ điều khiển truy nhập in và quản lý các nguồn lực máy in được nối vào mạng. Máy chủ tệp có thể kiêm nhiệm công việc của máy chủ in ấn nhưng nhiều khi làm như vậy gây ra sự quá tải của máy chủ tệp và làm chậm việc in trên mạng.
Máy chủ truyền thông (Communications Server): là máy tính thực hiện và quản lý những thiết bị truy nhập ngoài với mạng. Máy chủ này bao gồm cả các modem, các cổng đặc biệt để nối với các mạng khác. Có thể gọi máy chủ này là máy chủ truy nhập (Access Server)
Dây cáp (Cabling): có nhiệm vụ nối máy chủ, máy trạm và các thiết bị khác nhau trong mạng LAN lại với nhau.
Các giao diện mạng (Network Interface Cards): là các thiết bị nối giữa máy và
mạng làm nhiệm vụ truyền và chuyển đổi tín hiệu giữa hai thiết bị với nhau cho phù hợp.
Hệ điều hành mạng (Network Opẻating System): là phần mềm điều khiển
mạng. Đó là những chương trình thường trực trên máy chủ. Chúng thực hiện việc cài đặt phần cứng và phần mềm cho mạng cũng như quản lý và điều hành tất cả các thiết bị trên mạng.
- Lý do cài đặt mạng LAN
Dùng chung các thiết bị ngoại vi đắt tiền
Chia sẻ các tệp dữ liệu
Sử dụng những phần mềm nhiều người dùng
Truyền thông tin giữa các nhân viên với nhau
Nhắn tin, thư điện tử hoặc hội thoại điện tử
Truy nhập vào máy tính lớn hoặc các mạng khác
2.3.2. Mạng WAN (Wide Area Network – mạng diện rộng)
- Là mạng trải rộng trên phạm vi địa lý của một quốc gia, có sử dụng các đường truyền thông công cộng.
- Các thành phần của mạng WAN:
Máy chủ (Host): thường là những máy tính lớn và cả các máy mini, cung cấp năng lực tính toán, truy nhập vào các cơ sở dữ liệu, cung cấp các cơ sở dữ liệu và hệ
điều hành trên toàn mạng.
Các máy tiền xử lý (Front – End Processor): thường được dùng để xử lý các tác vụ vào /ra và một số tác vụ khác trước khi vào máy chủ.
Modem là thiết bị chuyển đổi dữ liệu số từ máy tính ra tín hiệu tương tự cho
kênh tương tự và ngược lại.
Thiết bị đầu cuối (Terminal): là các thiết bị cuối gắn vào mạng.
Bộ tập trung (Multiplexer): là thiết bị tập trung nhiều luồng thông tin vào một
kênh truyền hoặc tách thông tin từ một kênh truyền ra.
Giao thức truyền thông (Communications Protocol): là các quy tắc và các thủ tục quy định thống nhất để thực hiện các nhiệm vụ truyền thông. Các quy trình và
thủ tục thường được các phần mềm quản trị truyền thông thực hiện.
Phần mềm mạng (WAN Software): là các chương trình để điều hành hoạt động và thực hiện các ứng dụng trên mạng.
- Lý do cài đặt mạng WAN:
Nắm bắt dữ liệu như một nguồn lực
Nâng cao năng suất lao động Mở rộng địa bàn hoạt động Bảo đảm sự liên lạc kịp thời
Tăng cường hiệu quả và hiệu lực quản lý và điều hành
2.3.3. Mạng INTERNET
Có thể hiểu mạng Internet là mạng của các mạng có phạm vi toàn cầu, sử dụng
rất nhiều loại phương tiện truyền thông khác nhau và cung cấp rất nhiều các dịch vụ trên mạng.
3.1. Cơ sở dữ liệu
------------------ *** -------------------
Chƣơng 3: THIẾT KẾ CƠ SỞ DỮ LIỆU
Những nhà quản lý luôn phải lưu trữ và xử lý dữ liệu phục vụ cho công việc quản lý kinh doanh của mình. Những dữ liệu được lưu trong các cơ sở dữ liệu, nếu
mất những dữ liệu đó tổ chức sẽ gặp khó khăn lớn.
3.1.1. Một số khái niệm về cơ sở dữ liệu
Trước khi có máy tính, tất cả những thông tin của doanh nghiệp vẫn được thu
thập, lưu trữ xử lý và cập nhật. Chúng được được ghi trong sổ sách, ghi trên bảng,
… thậm trí ngay trong trí não của những nhân viên làm việc. Làm như vậy cần rất nhiều người, mất nhiều thời gian và vất vả khi tìm kiếm, tính toán.
Ngày nay người ta sử dụng máy tính và các hệ quản trị cơ sở dữ liệu (HQTCSDL ) để giao tác với các dữ liệu trong cơ sở dữ liệu. HQTCSDL là một phần mềm ứng dụng giúp chúng ta tạo ra lưu trữ, tổ chức và tìm kiếm dữ liệu từ một cơ sở dữ liệu đơn lẻ hoặc từ một số cơ sở dữ liệu. Microsoft Access, Foxpro là những ví dụ về những HQTCSDL thông dụng trên các máy tính cá nhân.
Cơ sở dữ liệu bắt đầu từ những khái niệm cơ sở sau đây:
Thực thể ( Entity ): là những sự vật, hay một cái gì đó tồn tại và phân biệt
được. Chẳng hạn như nhân viên, máy móc, hợp đồng mua bán … cần hiểu khi nói đến thưc thể là nói đến một tập hợp các thực thể cùng loại.
Ví dụ
- thực thể NHÂN VIÊN là bao gồm các nhân viên
- thực thể MÁY MÓC là bao gồm các máy móc
còn một thực thể cụ thể như nhân viên “Nguyễn thị H “ thì gọi là phần tử thực thể hay lần xuất của các thực thể trên.
Trƣờng dữ liệu ( Field ). Để lưu trữ thông tin về từng thực thể người ta thiết lập cho nó một bộ thuộc tính để ghi giá trị cho thuộc tính đó.
Bộ thuộc tính bao gồm các tính chất hoặc các đặc trưng về thực thể
Ví dụ
Bộ thuộc tính cho thực thể NHÂN VIÊN có thể là như sau:
1. Mã nhân viên
2. Họ và tên nhân viên
3. Ngày sinh
4. Mức lương
5. …
Mỗi thuộc tính được gọi là một trường. Nó chứa một mẩu tin về thực thể cụ thể. Nhà quản lý kết hợp với các chuyên viên HTTT để xây dựng nên những bộ
thuộc tính như vậy cho các thực thể
Bản ghi ( Record ). Tập hợp bộ giá trị của các trường của một thực thể cụ thể
làm thành một bản ghi.
Bảng ( Tables ). Toàn bộ các bản ghi lưu trữ thông tin cho một thực thể tạo ra một bảng mà mỗi dòng là một bản ghi và mỗi cột là một trường. ví dụ về bảng theo dõi hàng hóa trong kho:
Cơ sở dữ liệu ( Data Base ) được hiểu là tập hợp các bảng có liên quan với nhau được tổ chức và lưu trữ trên các thiết bị của tin hoc, chịu sự quản lý của hệ thống chương trình máy tính, nhằm cung cấp thông tin cho nhiều người sử dụng khác nhau, với mục đích khác nhau.
3.1.2. Hệ quản trị cơ sở dữ liệu (Database Management System –DBMS)
HQTCSDL là một tập các phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu và cung cấp các
dịch vụ xử lý cơ sở dữ liệu cho cả những người phát triển ứng dụng và người dùng
cuối.
HQTCSDL cung cấp một giao diện giữa người sử dụng và dữ liệu
DBMS đảm bảo lưu trữ và tìm kiếm hiệu quả
HQTCSDL có các khía cạnh : thu thập dữ liệu, lưu trữ, bảo trì, lập báo cáo...
3.1.3. Ngƣời dùng
Người dùng khai thác cơ sở dữ liệu thông qua HQTCSDL có thể phân thành
ba loại: người quản trị CSDL, người phát triển ứng dụng và lập trình, người dùng
cuối.
Người quản trị CSDL hàng ngày chịu trách nhiệm quản lý và bảo trì
CSDL như:
- Sự chính xác và toàn vẹn của dữ liệu và ứng dụng trong CSDL, sự bảo mật của CSDL.
- Lưu và phục hồi CSDL
- Giữ liên lạc với Người phát triển ứng dụng và lập trình, Người dùng cuối
- Bảo đảm sự hoạt động trôi chảy và hiệu quả của CSDL và HQTCSDL.
Người phát triển ứng dụng và lập trình là những người chuyên về máy
tính, có nhiệm vụ thiết kế, tạo dựng và bảo trì hệ thống thông tin cho người dùng
cuối.
Là những người không chuyên về máy tính nhưng họ là các chuyên gia trong các lĩnh vực khác có nhiệm vụ cụ thể trong tổ chức. Họ khai thác CSDL
3.2. Mô hình cơ sở dữ liệu
Mô hình cơ sở dữ liệu là một tập hợp các cấu trúc logic được sử dụng để diễn
tả cấu trúc dữ liệu và các mối quan hệ dữ liệu được tìm thấy trong cơ sở dữ liệu. Ta có thể chia mô hình cơ sở dữ liệu thành hai nhóm: các mô hình khái niệm và mô hình thực hiện
3.2.1. Mô hình khái niệm
Mô hình khái niệm tập trung vào bản chất logic của việc biểu diễn dữ liệu.
Do đó mô hình khái niệm liên quan tới cái gì được biểu diễn trong cơ sở dữ liệu hơn là làm thế nào để biểu diễn nó. Mô hình khái niệm gồm ba dạng quan hệ mô tả sự
liên hệ giữa các dữ liệu. Đó là dạng quan hệ một – một, nhiều một, và quan hệ nhiều - nhiều
3.2.1.1. Quan hệ một – một
Cho các tập thực thể E1 ,E2 , … Ek
Nếu mỗi thực thể của E1 có quan hệ với đúng một thực thể của E2 và ngược
lại thì mối quan hệ này gọi là mối quan hệ một - một giữa E1 và E2
Ví dụ: mối quan hệ giữa người lái xe và bằng lái. Một người chỉ có một bằng lái xe và một bằng lái xe chỉ thuộc về một người.
3.2.1.2. Quan hệ nhiều – một
Nếu mỗi thực thể trong E1 có mối quan hệ với nhiều nhất 1 thực thể trong
E2 và mỗi thực thể trong E2 có thể không có quan hệ với thực thể nào hoặc có quan hệ với 1 hoặc nhiều thực thể trong E1. Mối quan hệ này được gọi là mối quan hệ nhiều – một từ E1 vào E2.
Mối quan hệ giữa hai tập thực thể nhân viên và phòng ban là mối quan hệ nhiều – một từ NHÂN VIÊN vào PHÒNG BAN, vì mỗi nhân viên chỉ làm việc
trong một phòng và một phòng có thể có nhiều nhân viên làm việc
3.2.1.3. Quan hệ nhiều – nhiều
Mối quan hệ giữa SINH VIÊN và MÔN HỌC là mối quan hệ nhiều -nhiều.
Mỗi SINH VIÊN có thể có 1 hoặc nhiều MÔN HỌC Mỗi MÔN HỌC có 1 hoặc nhiều SINH VIÊN
Trong thực tế các HQTCSDL không hỗ trợ mối quan hệ này, để biểu diễn mối quan hệ này trong thiết kế thông thường người ta tách thành các mối quan hệ
nhiều một bằng cách thêm vào một thực thể trung gian.
3.2.2. Mô hình thực hiện
Khác với mô hình khái niệm, các mô hình thực hiện lại quan tâm tới vấn đề
làm thế nào để biểu diễn dữ liệu trong một cơ sở dữ liệu. Có ba loại mô hình thực hiện là: mô hình cơ sở dữ liệu thứ bậc, mô hình cơ sở dữ liệu mạng, mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ
3.2.2.1. Mô hình cơ sở dữ liệu thứ bậc
Mô hình này được xây dựng theo dạng thứ bậc, có dạng như một cây từ trên xuống dưới với các nút là các dạng báo cáo khác nhau của doanh nghiêp (hình 3.1)
A
B C
D E F
G H
I J K
Hình 3.1. Các phần tử của một cấu trúc thứ bậc
Trong dạng thứ bậc này, nút đầu tiên là nút mẹ. Các nút ở tầng trên là nút mẹ sinh ra các nút ở tầng dưới. Toàn bộ cây dữ liệu không có bất kỳ một sự trùng lặp nào như đối với hệ thống tệp. Để tìm tới một nút ở dưới nào đó, cây quan hệ sẽ thiết lập một đường dẫn tới nút đó. Mối liên hệ trong dạng cấu trúc này là:
- Mỗi nút mẹ có thể có nhiều nút con.
- Mỗi nút con chỉ có duy nhất một nút mẹ.
3.2.2.2. Mô hình cơ sở dữ liệu mạng
Mô hình này gần giống với mô hình cơ sở dữ liệu thứ bậc, điểm khác biệt lớn
nhất để phân biệt hai loại mô hình này là trong mô hình cơ sở dữ liệu mạng các báo cáo có thể thiết lập từ nhiều nguồn nghĩa là có nhiều nút mẹ tới một nút con.
Mô hình cơ sở dữ liệu mạng được thiết lập để biểu diễn những dữ liệu có mối
quan hệ phức tạp hơn mô hình cơ sở dữ liệu thứ bậc.
3.2.2.3. Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ
Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ được thực hiện thông qua một hệ thống cơ sở dữ liệu quan hệ. Hệ thống này cũng có những chức năng tương tự mô hình cơ sở dữ
liệu mạng và mô hình cơ sở dữ liệu thứ bậc và thêm vào đó nó còn có những chức năng giúp cho mô hình cơ sở dữ liệu trở lên dễ hiểu hơn và dễ thực hiện hơn. Cơ sở dữ liệu quan hệ gồm một tập hợp các bảng lưu trữ dữ liệu.
Mỗi bảng là một ma trận gồm một chuỗi các hàng hoặc cột giao nhau.
Mỗi bảng gồm nhiều mối liên hệ liên kết với nhau bởi một tính chất chung nào đó.
3.3. Thiết kế cơ sở dữ liệu
3.3.1. Chuyển đổi dữ liệu thành thông tin
Dữ liệu là những sự kiện hay những gì quan sát được trong thực tế và chưa hề được biến đổi sửa chữa cho bất cứ một mục đích nào khác. Ví dụ: khi một Doanh
nghiệp muốn thu thập thông tin về khách hàng, nó sẽ cần có những dữ liệu như tên, tuổi, giới tính của khách hàng, hoặc những khoản nợ của khách với doanh nghiệp
… Dữ liệu được thu thập càng nhiều thì việc phân tích nó càng trở nên dễ dàng hơn.
Tuy nhiên thông thường dữ liệu thường rất ít khi trực tiếp có ích cho người sử dụng chúng. Dữ liệu thường được xử lý để trở thành “thông tin” có ích cho nhà
quản lý.
Quá trình chuyển đổi dữ liệu thành thông tin có thể dựa trên các bảng tổng hợp dữ liệu, hoặc dựa trên các báo cáo chi tiết, dựa trên những số liệu thống kê phức tạp
từ các dữ liệu sẵn có. Bất cứ sử dụng phương pháp nào thì việc tạo ra quyết định vẫn dựa trên một vài dạng chuyển đổi dữ liệu.
Tất cả các dữ liệu thu thập được đều lưu trữ trong một hệ cơ sở dữ liệu.
3.3.2. Chu kỳ phát triển cơ sở dữ liệu
Trong một hệ thống thông tin lớn cơ sở dữ liệu thường được xây dựng thông qua một quá trình liên tục có tính lặp mà người ta thường gọi là vòng đời của cơ sở dữ liệu. Mỗi một quá trình như vậy thường được cấu tạo từ sáu bước cơ bản như minh họa trong hình 3.2.
Nghiên
Thiết
Thực
Kiểm
Vận
Duy trì
cứu
ban
đầu về kế
CSDL hiện tra và
đánh
giá hành
CSDL và phát
triển
CSDL
CSDL
Hình 3.2. Chu trình thiết kế cơ sở dữ liệu
Trong đó:
Nghiên cứu ban đầu về CSDL gồm các vấn đề sau:
- Phân tích tình trạng doanh nghiệp
- Xác định vấn đề và các hạn chế
- Xác định đối tượng
- Xác định phạm vi thực hiện
Thiết kế CSDL gồm các vấn đề sau:
- Thiết kế các khái niệm
- Thiết kế logic
- Thiết kế vật lý
- Lựa chọn phần mềm quản lý cơ sở dữ liệu
Thực hiện gồm các vấn đề sau cần lƣu ý:
- Các tham số cấu hình của cơ sở dữ liệu và hệ thống như vị trí đặt dữ liệu, đường truy cập dữ liệu …
- Độ an toàn
- Khôi phục dữ liệu
- Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu của doanh nghiệp
- Điều khiển đồng thời
Kiểm tra và đánh giá gồm các vấn đề sau:
- Kiểm tra cơ sở dữ liệu
- Đánh giá cơ sở dữ liệu và chương trình ứng dụng
Vận hành CSDL cần tiến hành: Thiết kế dòng thông tin cần thiết
Duy trì và phát triển cần tiến hành: Xem xét các thay đổi và tạo những chuyển đổi cần thiết.
3.4. Kỹ thuật thiết kế cơ sở dữ liệu
3.4.1. Kỹ thuật khách/ chủ ( client/ server )
Là phương thức chia sẻ thông tin trên mạng theo cách chia sẻ các chức năng sử dụng và khai thác phần mềm thành hai phần riêng biệt. Máy khách sử dụng mạng
truy cập lấy dữ liệu, và xử lý dữ liệu trên các máy trạm với các công cụ máy tính thông thường. Máy chủ hoạt động thường là một máy tính lớn được sử dụng chủ yếu để lưu trữ, khôi phục, và bảo vệ dữ liệu. Nói một cách khác trong mô hình này cơ sở dữ liệu nằm trên một máy khác với các máy có thành phần xử lý ứng dụng.
3.4.2. Kho dữ liệu và khai phá dữ liệu
3.4.2.1. Kho dữ liệu ( Data warehouse )
Data warehouse là một cơ sở dữ liệu với các công cụ báo cáo và truy vấn, lưu
trữ dữ liệu hiện thời và trước đó về một lĩnh vực của công ty mà các nhà quản lý quan tâm. Dữ liệu được thu thập từ nhiều hệ thống quan trọng khác trong công ty cũng như bên ngoài, kể cả những giao dịch trên Web.
3.4.2.2. Khai phá dữ liệu ( Datamining )
Datamining sử dụng một số kỹ năng tìm kiếm các mô hình và mối liên hệ ẩn chứa trong những lượng dữ liệu lớn, và rút ra các quy luật định hướng quyết định phán đoán tương lai.
3.4.3. Liên kết công nghệ website với các siêu cơ sở dữ liệu
Do trang Web có rất nhiều ưu điểm khi ứng dụng vào các hệ thống quản lý hiện nay, vì thế các trang Web đã được liên kết với các siêu cơ sở dữ liệu để các tổ chức, doanh nghiệp có thể truy cập cơ sở dữ liệu thông qua Web.
Phương thức làm việc chính của dạng kỹ thuật này là lấy nội dung từ CSDL và hiển thị nội dung lên trang Web bằng trình duyệt (browser).
3.4.4. Các dạng cơ sở dữ liệu thƣờng sử dụng
Đối với một hệ CSDL nằm phân tán trên mạng máy tính thì hệ quản trị CSDL có ý nghĩa rất quan trọng vì phải đảm bảo tính thống nhất và toàn vẹn dữ liệu, đảm bảo cho các chương trình người dùng truy xuất đến CSDL phân tán như là một khối CSDL thống nhất.
Ngoài ra hệ quản trị CSDL còn phải đảm bảo chức năng phân quyền truy nhập và bảo mật trên đường truyền. Trong các hệ quản trị CSDL phân tán hiện nay thì hệ quản trị CSDL Oracle được đánh giá là ưu việt nhất.
------------------ *** -------------------
Chƣơng 4: XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN HTTT
4.1. Quy trình phát triển hệ thống thông tin
Quy trình phát triển hệ thống nói chung và hệ thống thông tin nói riêng được thiết kế thông qua bốn bước: Điều tra và phân tích, thiết kế, triển khai, vận hành và bảo trì.
4.1.1. Điều tra và phân tích hệ thống
Mục tiêu chính của bước này là: xác định những vấn đề của hệ thống đang tồn tại, tìm hiểu những yêu cầu mới của hệ thống thông tin, và xác định những kỹ thuật mới có khả năng hỗ trợ.
Bước này bao gồm các công việc chính:
- Khảo sát sơ bộ
- Nghiên cứu tính khả thi
- Lập lược đồ dòng dữ liệu
4.1.2. Thiết kế hệ thống
Bước này đặc tả cách thức hoàn thành những yêu cầu thông tin cho người sử dụng. Ở bước này người ta xác định những trang thiết bị, những phần mềm sẽ được
sử dụng, những dữ liệu đầu ra, dữ liệu đầu vào, và cả cách thức tổ chức lấy dữ liệu của hệ thống. Những nội dung cần thiết kế:
- Thiết kế giao diện người sử dụng
- Thiết kế dữ liệu
- Thiết kế quá trình
- Đặc tả hệ thống
- Xác định các tiêu chuẩn thiết kế
4.1.3. Thực hiện và bảo trì hệ thống
Giai đoạn triển khai: giai đoạn này thực hiện nhiệm vụ mua các thiết bị phần cứng, phần mềm ( hoặc viết các chương trình phần mềm ), hoàn thiện mọi tài liệu về hệ thống, và tài liệu hướng dẫn cho người sử dụng
Tài liệu về hệ thống cho biết lịch sử của một hệ thống, thiết kế và mục tiêu của hệ thống đó. Không có tài liệu thì rất khó thực hiện sự thay đổi đối với hệ thống, vì không ai biết được các tệp, các báo cáo và các thủ tục được thiết kế như thế nào. Tài liệu này cần thiết cho quản trị viên hệ thống thông tin, những người sẽ bảo trì hệ thống trong suốt thời gian hoạt động của nó
Tài liệu sử dụng phục vụ chủ yếu cho người sử dụng hệ thống, giúp họ hiểu rõ về hệ thống và cách sử dụng hệ thống. Người sử dụng rất cần được làm quen với
các thủ tục nhập dữ liệu và hợp lệ hóa dữ liệu, biểu diễn các báo cáo đầu ra , các biện pháp xử lý lỗi.
Giai đoạn vận hành và bảo trì hệ thống: thực hiện nhiệm vụ cài đặt, khai thác và bảo trì hệ thống.
Cài đặt: là quá trình chuyển từ hệ thống cũ sang hệ thống mới. Bao gồm hai khối công việc là chuyển đổi về mặt kỹ thuật và chuyển đổi về mặt con người. Trong thực tế người ta hay mắc sai lầm khi xem nhẹ mặt chuyển đổi con người của hệ thống. Cần phải lưu ý rằng thái độ tích cực ủng hộ của người sử dụng là nhân tố quan trọng cho sự thành công của hệ thống mới. Tuy nhiên việc khích lệ con người tâm lý cho người sử dụng đón nhân hệ thống mới phải được chuẩn bị trong tất cả
các giai đoạn phát triển hệ thống, chứ không chỉ thực hiện trong giai đoạn cuối cùng
này.
Các phương pháp cài đặt hệ thống: cài đặ trực tiếp (dừng hoạt động của hệ thống cũ và đưa ngay hệ thống mới vào sử dụng ), cài đặt song song (cả hai hệ thống cũ và mới cùng hoạt động), cài đặ cục bô ( dung hòa giữa cài đặt trực tiếp và cài đặt gián tiếp, cài đặt cục bộ chỉ chuyển đổi từ hệ thống cũ sang hệ thống mới tại một hoặc vài bộ phận), chuyển đổi theo giai đoạn.
Khai thác: Sau khi khai thác hệ thống một thời gian thường là 6 tháng người ta thường tiến hành xem xét và đánh giá hệ thống mới với mục đích là xác định xem hệ thống mới có đạt được mục tiêu đề ra ban đầu hay không. Thông thường những điểm chủ yếu cần chú ý tới khi xem xét gồm: mức độ sử dụng hệ thống, sự hài lòng của người sử dụng, chi phí và lợi ích. Sự xem xét và đánh giá hệ thống giúp cho các nhà thiết kế xác định được một cách nhanh chóng và chính xác những gì chưa hoàn hảo của hệ thống và một phần nào đó còn thúc đẩy họ làm việc tốt hơn và có trách nhiệm hơn bởi họ biết chắc rằng công việc của họ sẽ được thẩm định lại chi tiết lại sau này.
Bảo trì: Sau khi hệ thống được cài đặt vấn đề bảo trì hệ thống bắt đầu được
đặt ra. Một số thành viên của nhóm phát triển hệ thống sẽ có trách nhiệm thu thập các yêu cầu về bảo trì hệ thống của người sử dụng và các thành phần quan tâm khác như các kiểm soát viên hệ thống, các trung tâm dữ liệu, các nhân viên quản trị mạng hay các phân tích viên hệ thống. Sau khi đã được thu thập mỗi yêu cầu cần được phân tích để xác định rõ xem nó có ảnh hưởng như thế nào đến hệ thống và nếu
thực hiện yêu cầu đó thì sẽ đem lại lợi ích gì. Một khi yêu cầu đã qua kiểm định, sẽ bắt đầu quá trình hiết kế và triển khai việc thay đổi hệ thống. Và cũng tương tự như
bắt đầu phát triển một hệ thống những thay đổi được triển khai sẽ phải qua kiểm duyệt và thử nghiệm trước khi tiến hành cài đặt vào các hệ thống tác nghiệp.
4.2. Các phƣơng pháp xây dựng và phát triển hệ thống thông tin
4.2.1. Phƣơng pháp chu kỳ hệ thống
Điều tra và phân tích hệ thống
Vận hành và bảo trì
Thiết kế
Triển khai
Hình 4.1. Chu kỳ xây dựng và phát triển hệ thống
4.2.2. Hệ thống mẫu thử nghiệm
Các bƣớc xây dựng hệ thống mẫu thử nghiệm: Bước 1: Xác định nhu cầu cơ bản của người sử dụng Bước 2: Phát triển hệ thống mẫu thử nghiệm ban đầu Bước 3: Sử dụng hệ thống mẫu thử nghiệm
Bước 4: Sửa chữa hệ thống mẫu thử nghiệm
Các bước 3 và 4 được lặp đi lặp lại cho tới khi người sử dụng hoàn toàn hài lòng với hệ thống.
Ƣu điểm
- Người sử dụng sớm tiếp cận được với hệ thống mới, giảm sự lãng phí và
những sai sót thiết kế thường xảy ra khi các yêu cầu chưa được xác định chính xác ngay tại thời điểm thời gian đầu tiên ( vì người sử dụng tham gia nhiều vào quá trình phát triển hệ thống).
- Thời gian hoàn thành nhanh ( vì sớm phát hiện được nhu cầu của người sử
dụng một cách chính xác).
Nhƣợc điểm
Mẫu thử nghiệm thường được làm nhanh chóng do đó nó thường không bao
quát được hết các vấn đề vì vậy khó có thể áp dụng với các hệ thống cần tính toán nhiều và có sử dụng các thủ tục phức tạp. Và có thể không đáp ứng được nhu cầu trong tương lai.
4.2.3. Phát triển hệ thống với các gói phần mềm
Phương pháp này thực hiện việc mua các gói phần mềm đã được thiết lập
sẵn.
Các doanh nghiệp thường sử dụng phương pháp này khi:
- Các doanh nghiệp không đủ nguồn lực( vốn, nhân lực)
- Cần xây dựng những hệ thống chức năng phổ biến cho nhiều doanh nghiệp
Ƣu điểm
- Giảm thời gian(thiết kế, tổ chức tệp dữ liệu, xử lý các mối quan hệ và xây
dựng các báo cáo).
- Không cần nhiều nguồn lực nội tại trong doanh nghiệp.
- Người sử dụng dễ dàng chấp nhận, và sử dụng hệ thống mới.
Nhƣơc điểm: Không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của người sử dụng. Những điểm cần lưu ý khi lựa chọn các gói phần mềm: chức năng, tính loinh
hoạt, tính tiện ích cho người sử dụng, Các cơ sở về phần cứng phần mềm, các đặc điểm của cơ sở dữ liệu, thiết lập cài đặt hệ thống, bảo trì, tài liệu hỗ trợ, chất lượng
nhà cung cấp, chi phí.
4.3. Các phƣơng thức quản lý quá trình xây dựng và phát triển hệ thống thông
tin
4.3.1. Thuê ngoài
Là việc tổ chức thiết kế và quản lý điều hành HTTT dựa vào tổ chức ngoài
doanh nghiệp.
Ƣu điểm:
Tính kinh tế: chi phí thấp hơn việc công ty tự làm
Chất lượng dịch vụ: cao do nhà cung cấp phải giữ gìn uy tín của họ
Tính có thể dự doán được ( chi phí )
Tính linh hoạt: có khả năng được dùng công nghệ tiên tiến mà không phải đầu tư ban đầu.
Có thể sử dụng nhân công cho các dự án khác
Có thể tự do sử dụng nguonf tài chính cho các hoạt động khác.
Nhƣợc điểm
Mất khả năng kiểm soát
Sự bất ổn về thông tin chiến lược : các bí mật và thông tin của doanh nghiệp
không được an toàn
Tính phụ thuộc
Thƣờng thì các doanh nghiệp ra quyết định thuê ngoài khi:
Thuê ngoài tạo được sự khác biệt hóa các hoạt động dịch vụ của nó nhờ
HTTT
HTTT bị ngưng hoạt động một thời gian cũng không ảnh hưởng lớn tới hoạt
động của doanh nghiệp
Thuê ngoài không bị lộ bí mật về việc phát triển HTTT trong tương lai
Khả năng của doanh nghiệp bị hạn chế
4.3.2. Sử dụng nội lực
Là cách mà doanh nghiệp tiến hành việc xây dựng và phát triển HTTT hoàn
toàn nhờ vào nguồn nhân lực trong doanh nghiệp.
Đầu tư cơ sở hạ tầng lớn. Thường thì các doanh nghiệp lớn mới có khả năng lựa chọn phương pháp này. Tuy nhiên việc sử dụng nội lực cũng có những ưu thế.
4.3.3. Thuê nhân công hợp đồng
Ƣu điểm
Tiết kiệm được chi phí cho nhân lực
Linh hoạt trong việc thuê nhân công
Có thể sa thải nhân viên khi cần thiết
Nhƣợc điểm
Người được thuê không có trách nhiệm, không gắn bó với doanh nghiệp
Những kiến thức có liên quan tới doanh nghiệp cũng đi theo người được thuê
Đôi khi cần thuê nhưng không tìm được người phù hợp
4.3.4. Kết hợp
4.4. Nguyên nhân thành công và thất bại trong xây dựng và phát triển HTTT
4.4.1. Vai trò của ngƣời sử dụng
Sự tham gia của người sử dụng trong quá trình thiết kế và thực hiện hệ thống
đôi khi rất có ích cho toàn bộ công việc xây dựng hệ thống thông tin. Tuy nhiên
hiệu quả của sự tham gia này phụ thuộc rất nhiều vào mối quan hệ giữa chuyên gia
thiết kế và người sử dụng.
4.4.2. Mức độ hỗ trợ quản lý
Có sự tham gia kiểm tra và khích lệ của nhà quản lý tới người sử dụng và
những chuyên gia HTTT sẽ làm việc tốt hơn.
4.4.3. Mức độ rủi ro và phức tạp của việc thực hiện dự án
Các hệ thống thường khác nhau cơ bản về kích cỡ, lĩnh vực, mức độ phức
tạp, và cấu trúc tổ chức cũng như kỹ thuật. Có ba yếu tố cơ bản ảnh hưởng tới mức độ rủi ro của dự án:
- Quy mô dự án càng lớn thì mức độ rủi ro càng cao.
- Kết cấu của dự án: dự án có cấu trúc cao sẽ làm cho các yêu cầu của người sử dụng rõ ràng hơn, độ rủi ro thấp hơn.
- Kinh nghiệm về công nghệ: kinh nghiệm thấp thì mức độ rủi ro cao.
4.4.4. Chất lƣợng quản lý quá trình thực hiện
------------------ *** -------------------
Chƣơng 5: CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN CẤP CHUYÊN GIA
5.1. Hệ thống thông tin tự động hóa văn phòng
5.1.1. Vai trò và các hoạt động của văn phòng trong một tổ chức
Vai trò
Văn phòng bao gồm nhiều dạng công việc khác nhau. Một văn phòng thường
thực hiện các công việc chính:
- Xử lý dữ liệu: bao gồm các hoạt động tác nghiệp liên quan đến việc tạo,
- Xử lý duy trì các bản ghi dữ liệu tài chính
- Hỗ trợ quản trị: bao gồm các hoạt động hỗ trợ cho nhà quản trị như lập
lịch và duy trì lịch hẹn cho các nhân viên quản trị, xử lý thư tín, xắp xếp
các chuyến công tác và các cuộc họp cho nhà quản trị, cho phép nhà quản trị tập chung vào việc ra quyết định.
- Xử lý tài liệu ( xử lý văn bản ): bao gồm việc tạo, lưu giữ, sửa chữa, phân phối và sao chụp các tài liệu. Chức năng xử lý tài liệu khác với chức
năng xử lý dữ liệu ở chỗ đối tượng xử lý là các văn bản, từ ngữ. Tài liệu có thể là những bức thư, các báo cáo, các tối hậu thư hay các đề nghị.
Việc thực hiện các công việc trên có sự tham gia của nhiều ngành nghề chuyên môn khác nhau, của những người quản lý, thư ký, bán hàng, và các chuyên gia trên nhiều lĩnh vực. Như vậy văn phòng có thể coi như một nơi hội tụ của những con người có chuyên môn khác nhau cùng hợp tác để đạt được một mục đích chung nào đó. Đối với một tổ chức văn phòng có những vai trò sau:
- Kết hợp và quản lý công việc của các chuyên gia trong từng lĩnh vực và các nhân công tri thức trong một doanh nghiệp.
- Liên kết các đơn vị và các dự án khác nhau trong một tổ chức
- Gắn liền một tổ chức với môi trường bên ngoài, với các khách hàng và những nhà cung cấp.
Các hoạt động chính trong văn phòng
Các hoạt động chủ yếu được thực hiện trong mỗi văn phòng bao gồm việc quản lý các tài liệu, lập kế hoạch và liên lạc với mọi người, quản lý dữ liệu, và quản lý các dự án. Bảng 5.1 mô tả các hoạt động chính này. Có rất nhiều công nghệ văn
phòng đã được phát triển, phục vụ tự động hóa các hoạt động trên và làm tăng năng suất, giảm chi phí văn phòng. Đó là công nghệ xử lý văn bản, fax, các thiết bị quét, các hệ thống thư điện tử …
5.1.2. Khái niệm hệ thông tin tự động hóa văn phòng
Hệ thống thông tin tự động hóa văn phòng (OAS – Office Automated System
)là một hệ thống thông tin vi tính nhằm thu thập, xử lý, lưu trữ và truyền các mẩu thông báo, các lời nhắn, các tài liệu và các dạng truyền tin khác giữa các cá nhân,
các nhóm làm việc và các tổ chức khác nhau.
Hệ thống OAS làm các nhiệm vụ:
- Thu thập: Văn bản, tài liệu, lịch trình
- Xử lý: Quản lý văn bản, lập lịch trình, thông tin liên lạc
- Phân phối: Văn bản, lịch biểu, thư điện tử
- Người dùng: Nhân viên văn thư, tất cả các nhân viên
Hệ thống này có tác dụng hỗ trợ nhân viên văn phòng trong các chức năng
phối hợp và liên lạc trong văn phòng
Hệ thống OAS có khả năng làm tăng hiệu quả của việc quản lý, và công việc
của các chuyên gia, nhờ việc chuyên môn hóa, giảm thời gian và nỗ lực cần thiết để thực hiện và nhận các thông tin được truyền trong một doanh nghiệp. Hình 5.1 mô
tả một số hệ thống thông tin tự động hóa văn phòng.
Bảng 5.1. Vai trò và các hoạt động chính của văn phòng
Những vai trò chủ yếu của văn phòng
Các hoạt động chính trong văn
phòng Tỷ
lệ phần
trăm nỗ lực
Công nghệ thông tin hỗ trợ
Liên kết và
quản lý con người và công việc Quản lý tài liệu
Tạo lập, lưu trữ, khôi phục và liên kết hình ảnh và các tài liệu dưới dạng số hóa 40% Quản lý tài liệu
Các phần cứng và phần mềm
Ấn loát văn phòng
Xử lý ảnh dạng số
Liên kết các
đơn vị và các
dự án Lên kế hoạch cho mỗi cá nhân và
mỗ nhóm
Thiết kế, quản lý và liên kết các tài liệu, các kế hoạch và lịch hoạt động 10% Lịch số
Lịch điện tử
Thư điện tử
Các phần mềm làm việc theo nhóm
Gắn liền tổ
chức với môi trường bên
ngoài Liên kết với các cá nhân và các
nhóm
Thiết lập, nhận và quản lý các cuộc
liên lạc bằng âm thanh và bằng số hóa với các cá nhân và các nhóm khác nhau 30% Liên lạc
Thiết bị điện thoại số
Các phần mềm làm viêc theo nhóm
Quản lý dữ liệu về các cá nhân và
các nhóm
Nhập và quản lý dữ liệu về các khách hàng, và những chủ cung cấp
bên ngoài tổ chức, và các cá nhân và các nhóm bên trong tổ chức 10% Quản lý dữ liệu
CSDL về khách hàng, theo dõi dự án, và thông tin về lịch làm việc(quản lý các thông tin cá nhân )
Quản lý dự án
Lập kế hoạch, thực hiện, đánh giá, và điều khiển các dự án
Phân phối các nguồn lực và các
quyết định các nhân 10% Quản lý dự án
Các công cụ quản lý dự án trên máy tính
Các hệ thống thông tin tự động hóa văn phòng
Hệ thống in ấn điện tử
Hệ thống truyền thông điện tử
Hệ thống họp điện tử
Hệ thống xử lý ảnh
Hệ thống quản lý văn phòng
Hình 5.1. Hệ thống thông tin tự động hóa văn phòng
5.1.3. Lợi ích và hạn chế trong xây dựng hệ thống thông tin tự động hóa văn
phòng
Lợi ích:
- Truyền thông hiệu quả hơn
- Truyền thông trong thời gian ngắn hơn
Hạn chế:
- Chi phí cho phần cứng của HTTT tự động hóa văn phòng lớn
- Người sử dụng ít có khả năng trực tiếp quan sát vai trò và môi trường của
công việc
- Khó bảo đảm an toàn thông tin hoặc bị quấy rối thông tin khi nhân được những bản quảng cáo hoặc những thông tin không cần thiết.
5.2. Hệ thống thông tin cung cấp tri thức(Knowledge Working System – KWS)
5.2.1. Một số đặc điểm của nền kinh tế trong thời đại thông tin
Vào cuối thế kỷ XIX nền kinh tế thế giới bắt đầu xuất hiện một hình thái kinh tế mới đó là nền kinh tế dịch vụ và thông tin. Vào thời kỳ này số người trực
tiếp dùng sức người để tạo ra sản phẩm đã suy giảm mà thay vào đó số người làm việc trong các văn phòng khai thác thông tin để tạo ra các hiệu quả kinh tế đã tăng lên. Một sự chuyển biến rõ rệt đã xảy ra ở khắp mọi nơi trên thế giới. Trong đó có bốn yếu tố quan trọng mà ta cần phải kể tới:
Thứ nhất, sự dịch chuyển các cơ sở sản xuất hàng hóa về các nước thuộc thế giới thứ ba, và các nước đang phát triển. Trong khi đó các nước phát triển lại dịch chuyển dần sang xu hướng dịch vụ.
Thứ hai, các sản phẩm và dịch vụ thông tin tri thức ngày càng được phát triển nhanh chóng. Các sản phẩm thông tin tri thức là các sản phẩm đòi hỏi phải có hàm lượng tri thức cao về cách thức sản xuất. Đồng thời mức sử dụng tri thức vào các sản phẩm hiện tại cũng tăng lên đáng kể so với sản phẩm truyền thống.
Thứ ba, đã xuất hiện sự thay thế công nhân sản xuất bằng sức lao động bởi các nhân công thông tin và tri thức trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa. Những người
vận hành máy móc thiết bị đã bị thay thế bởi những nhân viên kỹ thuật điều khiển các công cụ điều khiển máy móc thông qua máy tính.
Thứ tư, nhiều tổ chức hoạt động trên cơ sở thông tin và tri thức đã xuất hiện và tham gia vào tất cả các quá trình sản xuất kinh doanh như sản xuất, xử lý và phân phối thông tin.
Sự chuyển biến rõ rệt đó khiến cho công nghệ và hệ thống thông tin tìm được
vị trí ở trung tâm đầu não của các doanh nghiệp.
5.2.2. Công việc cung cấp thông tin và tri thức là gì
Trước khi xem hệ thống thông tin có hiệu quả như thế nào, ta cần phải xác
định công việc và nhân viên cung cấp thông tin và tri thức là gì?
Nhân viên thông tin là tất cả những người lao động làm nhiệm vụ tạo ra, làm việc cùng với, và phổ biến thông tin.
Công việc thông tin là công việc có liên quan chặt chẽ tới việc tạo ra và xử lý
thông tin.
Nhân viên thông tin được chia làm hai loại là: nhân viên tri thức (những người tạo ra thông tin mới và tri thức mới ) và nhân viên dữ liệu ( những người trực
tiếp sử dụng, xử lý, hoặc phổ biến thông tin ). Do đó, công việc tri thức là công việc tạo ra thông tin hoặc tri thức mới, công việc dữ liệu là công việc có liên quan tới việc sử dụng, xử lý và phổ biến thông tin. Bảng 5.2 dưới đây chỉ rõ một số dạng công việc dành cho nhân viên tri thức, dữ liệu, dịch vụ và nhân viên sản xuất.
Bảng 5.2. Ví dụ về các dạng nhân công
Tri thức Dữ liệu Dịch vụ Sản xuất
Kiến trúc sư Người bán hàng Bồi bàn Người lái xe
Kỹ sư
Kế toán viên Kỹ thuật viên vệ
sinh
Thợ hàn
Nhà khoa học
Dược sĩ
Y tá Công nhân xây
dựng
Báo cáo viên Người thu thập
thông tin
Thợ cắt tóc
Người đánh cá
Nhà nghiên cứu
Người phác thảo Người chăm sóc
trẻ
Nông dân
Chuyên viên
thống kê Người môi giới
chứng khoán
Lao công
Thợ mỏ
Người lập trình Thư ký Người coi vườn Thợ lắp kính
Nhà quản lý
Nhà quản lý Nhân viên khách
sạn
Thợ máy
Việc phân biệt các loại nhân công trong các công việc khác nhau này không đơn giản, đặc biêt với công việc như quản lý vừa tạo ra thông tin mới vừa tạo ra dữ liệu.
Cách tốt nhất để nhân dạng những loại dữ liệu này là dựa trên khối lượng
đào tạo đòi hỏi đối với những người làm việc này để đảm bảo chất lượng công việc.
Nhân viên tri thức thường độc lập và sáng tạo do họ có trình độ cao về học thức. Họ thường có trình độ cao về bằng cấp trước khi bắt đầu công việc. Nhân viên dữ liệu thường chỉ cần có trình độ đại học hoặc tốt nghiệp PTTH là đủ. Chính vì thế hai nhóm nhân viên này sẽ có yêu cầu khác hẳn nhau đối với hệ thống thông tin. Nhóm nhân viên dữ liệu hoàn toàn lệ thuộc vào hệ thống thông tin còn nhóm nhân viên tri thức lại đòi hỏi hệ thống phải được hỗ trợ bởi một hệ thống phần mềm đặc biệt cao và có những trạm máy chuyên dụng mạnh.
5.2.3. Một số đặc điểm trong quản lý tri thức
- Quản lý tri thức là công việc khá tốn kém
- Việc quản lý tri thức muốn có hiệu quả đòi hỏi phải xây dựng một hệ thống
giải pháp lai ghép giữa con người và công nghệ.
- Quản lý tri thức đòi hỏi những người quản lý phải có tri thức.
- Chia sẻ và sử dụng thông tin thường không phải là một hành động tự nhiên
- Quản lý tri thức thực hiện việc phát triển quá trình xử lý công việc tri thức
- Quản lý tri thức không bao giờ có điểm kết thúc
- Quản lý tri thức có lợi từ việc sắp xếp, định hướng nhiều hơn là từ các mô
hình
5.2.4. Khái niệm hệ thống thông tin cung cấp tri thức ( KWS )
KWS là hệ thống hỗ trợ lao động có trình độ cao trong công việc chuyên môn hàng ngày của họ.
Hệ thống phục vụ ở cấp chuyên môn và văn phòng:
- Thu thập: các ý tưởng thiết kế, thông số kỹ thuật
- Xử lý: xây dựng các mô hình chuyên môn
- Phân phối: bản thiết kế, đồ họa, kế hoạch
- Người dùng: các chuyên gia, kỹ thuật viên
5.2.5. Vai trò của hệ thống thông tin cung cấp tri thức trong các tổ chức
Để thấy được vai trò của KWS ta xem xét cách thức mà tri thức tham gia vào công việc kinh doanh trong doanh nghiệp:
- Ngày nay những ngành có lợi nhuận nhất là những ngành sản xuất các sản phẩm thông tin và tri thức hay nói cách khác tri thức góp phần tạo ra các sản phẩm thu được lợi nhuận cao.
- Đóng vai trò là người cố vấn cho mỗi doanh nghiệp
- Nhân công tri thức là những tác nhân thay đổi tổ chức
Vai trò của KWS là hỗ trợ cho những người khai thác tri thức trong việc tạo ra và liên kết những công việc tri thức mới trong một tổ chức.
5.2.6. Các yêu cầu đối với hệ thống thông tin cung cấp tri thức
- Liên hệ được với nhiều nguồn thông tin và dữ liệu bên ngoài hơn là các hệ thống thông thường khác.
- Đòi hỏi các phần mềm hỗ trợ đồ họa, phân tích, quản lý tài liệu, dữ liệu
và có khả năng truyền thông ở mức cao hơn các hệ thống khác
- Hỗ trợ mạnh hơn về phần cứng, về mạng.
- Đòi hỏi phải có giao diện tiện ích để giảm thời gian của nhân công tri
thức.
------------------ *** -------------------
Chươ ng 6:
CÁC HỆ THỐNG THÔNG TIN CHỨC NĂNG TRONG DOANH NGHIỆP
6.1. Hệ thống thống thông tin Marketing
6.1.1. Khái quát về hệ thống thông tin Marketing
Các chức năng của Marketing
6.1.2. Các hệ thống thông tin Marketing
6.1.2.1. Các hệ thống thông tin Marketing tác nghiệp
Hệ thống thông tin bán hàng
Nhân viên bán hàng thực hiện hàng loạt các hoạt động bán hàng như xác
định khách hàng tiềm năng, tạo mối liên hệ với các khách hàng, bán hàng trọn gói và theo dõi khách hàng. Có rất nhiều hệ thống thông tin có khả năng hỗ trợ nhân viên bán hàng trong các hoạt động này.
Hệ thống thôn g tin khác h hàng tươ n g lai
Khoanh vùng khách hàng tương lai là một công việc tốn nhiề thời gian và công sức. Các nguồn thông tin phục vụ cho việc xác định khách hàng tương lai thường rất khác nhau. Đó có thể là các nhà cung cấp, các ghi chú trên báo chí, hay
các phiếu thăm dò khách hàng …
Khi tệp các khách hàng tương lai được lưu trữ trên các đĩa từ, thì các nhân
viên bán hàng sẽ rất dễ tìm kiếm và tổng hợp thông tin về họ. Như vậy đầu ra của
hệ thống thông tin khách hàng tương lai có thể gồm các danh mục các khách hàng theo địa điểm, theo loại sản phẩm, theo doanh thu gộp hoặc theo các chỉ tiêu khác có tầm quan trọng đối vời lực lượng bán hàng.
Các cơ sở dữ liệu trực tuyến cũng là nguồn thông tin về khách hàng tương
lai.
Hệ thống thôn g tin liên hệ khách hàn g
Hệ thống thông tin liên hệ khách hàng cung cấp thông tin cho bộ phận bán
hàng về các khách hàng, về sở thích của họ đối với các sản phẩm và dịch vụ và số liệu về quá trình mua hàng của họ trong quá khứ.
Hệ thống thôn g tin hỏi đáp/ khiếu nại.
Khi khách hàng có khiếu nại, thắc mắc về các sản phẩm & dịch vụ mà doanh
nghiệp đưa vào lưu thì các khiếu nại đó cần được ghi nhận, xử lý và lưu trữ lại, phục vụ phân tích quản lý hoặc liên hệ kinh doanh sau này.
Hệ thống thôn g tin tài liệu
Môt hệ thống thông tin tài liệu cung cấp cho nhân viên Marketing nhiều tài liệu có thể sử dụng ngay cho hoạt động của họ. Hệ thống này cũng cải tiến chất lượng của các tài liệu được sử dụng bởi nhân viên Marketing và vậy nên sẽ góp phần nâng cao doanh thu bán hàng.
6.1.2.2. Các hệ thống thông tin Marketing sách lƣợc
Các hệ thống thông tin Marketing sách lược khác với các hệ thống thông tin tác nghiệp, vì bên cạnh các thông tin cơ sở chúng còn cho phép tạo các báo cáo, tạo các kết quả đầu ra theo dự tính cũng như ngoài dự tính, các thông tin so sánh cũng như thông tin mô tả. Các hệ thống thông tin Marketing sách lược cung cấp các thông tin tổng hợp chứ không phải các dữ liệu chi tiết như hệ thống thông tin tác nghiệp, nó bao gồm không những dữ liệu bên trong mà cả các nguồn dữ liệu bên ngoài, nó xử lý không những dữ liệu khách quan mà cả những dữ liệu chủ quan.
Các hệ thống Marketing sách lược thường kết hợp các dữ liệu tài chính tác nghiệp với các dữ liệu khác để hỗ trợ cho các nhà quản lý Marketing trong quá trình
ra quyết định sách lược. Các nhà quản lý thường đưa ra các quyết định sách lược
khi họ chuẩn bị và triển khai các kế hoạch Marketing, mà theo đó họ hy vọng sẽ đạt được mục tiêu kinh doanh và lợi nhuận chiến lược đề ra. Sau đây là một số hệ thống thông tin Marketing sách lược điển hình.
Hệ thống thông tin quản lý bán hàng
Mục tiêu chính của các nhà quản lý bán hàng là đạt được các mục tiêu do
mức quản lý cao nhất đặt ra . Để đạt được các mục tiêu này, các nhà trị kinh daonh
phải ra rất nhiều quyết định sách lược như:
- Nên sắp xếp các các điểm kinh doanh như thế nào?
- Bố trí các bộ phận bán hàng sao cho phù hợp với các địa điểm này.
- Quyết định khên thưởng hoặc kỷ luật nhân viên bán hàng …
- Cần tập chung vào đoạn thị trường nào để đạt được kết quả kinh doanh tốt nhất …
Ngoài ra họ cũng phải theo dõi tiến triển của kết quả kinh doanh để xác định
xem các quyết định có được ban hành đúng đắn không hay cần có sự hiệu chỉnh trong các kế hoạch sách lược.
Để có thể ra quyết định một cách hiệu quả, các nhà quản trị Marketing cần
một cần một lượng lớn dữ liệu lịch sử về quá trình kinh doanh của mỗi nhân viên bán hàng, mỗi địa điểm kinh doanh, mỗi sản phẩm và mỗi đoạn thị trường. Các dữ
liệu này được cung cấp bởi hệ thống thông tin quản lý kinh doanh.
Hệ thống thông tin xúc tiến bán hàng
Hệ thống hỗ trợ cho nhà quản trị sách lược xem nên sử dụng các phương tiện quản cáo và hình thức khuyến mãi như thế nào để có thể giành được thị trường đã chọn và hỗ trợ việc triển khai các hoạt động đó để đạt được kết quả kinh doanh.
Ví dụ: Hệ thống thông tin xúc tiến bán hàng sử dụng các dữ liệu về các sản
phẩm và dịch vụ nào bán chạy nhất của hệ thống xử lý đơn hàng. Sau đó đưa ra các báo cáo để quyết định xem sản phẩm hoặc dịch vụ nào được quảng cáo. Nếu các báo cáo như vậy đến tay nhà quản trị Marketing đúng lúc họ có thể xác định được sản phẩm, dịch vụ nào không đạt được mục tiêu kinh doanh đề ra để có biện pháp
can thiệp. Các nhà quản lý có thể lập ra các kế hoạch quản cáo và khuyến mãi nhằm lấp khoảng trống giữa doanh thu thực tế và doanh thu kế hoạch. Các báo cáo cũng
có thể xác định được các sản phẩm, dịch vụ nào bán chạy hơn so với dự tính để mở
rộng kinh doanh các mặt hàng đó.
Hệ thống thông tin giá thành sản phẩm
Hệ thống này cung cấp thông tin cho các nhà quản trị để trợ giúp cho họ trong việc định giá cho sản phẩm, dịch vụ của họ. Giá của sản phẩm, dịch vụ ảnh hưởng tới doanh thu và lãi của doanh nghiệp do đó các hệ thống này là rất quan trọng. Để có thể ra quyết định về giá cả, nhà quản trị Marketing cần dự báo được nhu cầu đối với sản phẩm đó hay sản phẩm tương tự, lợi nhuận biên - cần đạt được, chi phí sản xuất sản phẩm, dịch vụ và giá của những sản phẩm cạnh tranh. Tùy theo
từng loại sản phẩm, dịch vụ, mục tiêu của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhà quản lý sẽ quyết định thay đổi đầu vào của dữ liệu sao cho phù hợp.
6.1.2.3. Các hệ thống thông tin Marketing chiến lƣợc
Để phát triển một kế hoạch Marketing chung, doanh nghiệp cần thực hiện nhiều hoạt động sách lược và chiến lược khác nhau. Một số các hoạt động chiến lược bao gồm:
- Phân đoạn thị trường
- Lựa chọn thị trường mục tiêu
- Lập kế hoạch cho các sản phẩm và dịch vụ để có thể thỏa mãn nhu cầu
của khách hàng
- Dự báo bán hàng đối với các thị trương và các sản phẩm.
Các hoạt động chiến lược của các nhà quản trị cấp cao sẽ có những hệ thống thông tin chiến lược để hỗ trợ. Một số hệ thống điển hình:
Hệ thống thông tin dự báo bán hàng
Hệ thống hỗ trợ các hoạt động dự báo bán hàng. Dự báo bán hàng mức chiến lược thường gồm nhiều loai khác nhau: dự báo cho ngành, doanh nghiệp, cho một loại sản phẩm & dịch vụ mới. Dù thuộc loại nào chăng nữa, các dự báo bán hàng không chỉ dựa trên dữ liệu lịch sử mà dựa trên cả các giả định về các hoạt động của các đối thủ, phản ứng của chính phủ, sự dịch chuyển cầu của người tiêu dùng, xu
thế cơ cấu dân số và hàng loạt các yếu tố liên quan khác, kể cả yếu tố thời tiết.
Trong một doanh nghiệp có quan điểm tiếp thị Marketing thì xây dựng dự
báo bán hàng cho năm tiếp theo cho toàn doanh nghiệp là một công việc quan trọng. từ dự báo này có thể có cơ sở để các nhà quản trị sách lược đưa ra các quyết định sách lược về phương hướng của rất nhiều chức năng khác của doanh nghiệp. Ví dụ dựa trên dự báo về bán hàng:
- Nhà quản lý có thể ra quyết định giữ lại hay gạt bỏ sản phẩm và dịch vụ ra khỏi tiếp thị hỗn hợp hiện tại của các doanh nghiệp.
- Các nhân viên nghiên cứu thị trường có thể lên kế hoạch và phát triển các
sản phẩm, dịch vụ mới.
- Nhà quản lý Marketing có thể phân bổ lại nhân viên bán hàng, phân chia địa điểm kinh doanh.
- Các nhà quản trị tài chính sẽ huy động vốn hay dự trữ vốn cần thiết để hỗ trợ các mức sản xuất và kinh doanh theo dự tính được ập ra bởi các
phòng ban trong doanh nghiệp, dự báo lợi nhuận cho cả năm tài chính và lên kế hoạch cho việc sử dụng các dòng tiền của tổ chức.
Hệ thống thông tin lập kế hoạch và phát triển sản phẩm
Mục tiêu của hệ thống là cung cấp thông tin về sự ưa chuộng của khách hàng thông qua hệ thống nghiên cứu thị trường cho việc phát triển sản phẩm mới. Đầu ra quan trọng nhất của các hoạt động lập kế hoạch và phát triển là một bộ các đặc tả của sản phẩm, sau đó chuyển tới phòng thiết kế để thiết kế sản phẩm.
6.1.2.4. Các hệ thống thông tin Marketing sách lƣợc và chiến lƣợc
Hệ thống thông tin nghiên cứu thƣơng mại
Nghiên cứu thương mại là việc xác định có hệ thống những tài liệu cần thiết về điều kiện thương mại cần thiết của doanh nghiệp, thu thập, phân tích và báo cáo kết quả về các thông tin đó. Tùy từng doanh nghiệp mà có thể có một hoặc nhiều người thực hiện công việc này.
Đầu vào của quá trình nghiên cứu thương mại phần lớn là các nguồn bên ngoài doanh nghiệp. Có rất nhiều nguồn dữ liệu khác nhau:
- Dữ liệu về khách hàng.
- Các cuộc điều tra dữ liệu về dân số.
- Dữ liệu về công nghiệp, thương mại, kinh tế, môi trường, khoa học.
Có thể thu thập các dữ liệu trên thông qua các công cụ như khảo sát trực tiếp
khách hàng, phỏng vấn, điện thoại, các báo cáo từ nhân viên.
Nhân viên nghiên cứu thương mại sử dụng nhiều các phương pháp thống kê trong việc phân tích dữ liệu thu thập được cũng như trong việc báo cáo thông tin cho doanh nghiệp.
Sau đây là một số công việc đặc trưng của một phòng nghiên cứu thương
mại:
- Tiến hành phân tích các xu hướng bán các sản phẩm, dịch vụ giống hệt hoặc tương đương như sản phẩm mà doanh nghiệp chào bán, nhằm xác định các sản phẩm, dịch vụ đang có chiều hướng tăng hoặc giảm.
- Phân tích cấu trúc dân cư và đặc điểm của nhóm khách hàng mục tiêu, đặc biệt là các xu thế hay sự thay đổi có thể ảnh hưởng tới việc bán hàng
của doanh nghiệp.
- Phân tích và đánh giá sở thích của khách hàng, bao gồm việc thử các sản phẩm dịch vụ. xác định và phân tích sự hài lòng của khách hàng đối với
các sản phẩm hiện có của doanh nghiệp…
Hệ thống thông tin theo dõi các đối thủ cạnh tranh
6.1.3. Các phần mềm cho Marketing
Có thể phân phần mềm máy tính hỗ trợ chức năng Marketing thành hai
nhóm: phần mềm phục vụ Marketing đa năng và phần mềm Marketing chuyên biệt.
Phần mềm phục vụ Marketing đa năng
Là phần mềm chung có thể được ứng dụng cho nhiều hệ thống thông tin
Marketing. Các phần mềm này gồm: phần mềm truy vấn và sinh báo cáo, phần mềm đồ họa, phần mềm thống kê, phần mềm quản trị tệp và cơ sở dữ liệu, phần mềm soạn thảo văn bản và phần mềm bảng tính.
Phần mềm Marketing chuyên biệt
Có rất nhiều phần mềm chuyên dụng được phát triển cho hàng loạt các hoạt động Marketing. Sau đây là một số phần mềm:
- Phần mềm trợ giúp nhân viên bán hàng.
- Phần mềm trợ giúp quản lý nhân viên bán hàng
- Phần mềm trợ giúp quản lý chương trình bán hàng qua điện thoại
- Phần mềm trợ giúp quản lý hỗ trợ khách hàng
- Phần mềm Marketing tích hợp.
6.2. Hệ thống thông tin sản xuất
6.2.1. Khái quát về hệ thống thông tin sản xuất
Hệ thống thông tin sản xuất hỗ trợ ra quyết định đối với các hoạt động phân
phối và hoạch định các nguồn lực cho sản xuất.
Tùy từng doanh nghiệp mà các hệ thống sản xuất sẽ có những hình thức khác nhau: sản xuất theo dòng liên tục, sản xuất hàng loạt, sản xuất theo yêu cầu và theo hợp đồng, sản xuất dịch vụ hay sản phẩm.
Mục tiêu của hệ thống sản xuất:
- Cung cấp nguyên vật liệu và các yếu tố sản xuất khác
- Kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu
- Tìm kiếm nhân công, mặt bằng nhà xưởng và các thiế bị sản xuất
- Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu, nhân công, nhà xưởng và thiết bị sản xuất
- Sản xuất sản phẩm dịch vụ
- Kiểm tra chất lượng sản phẩm và dịch vụ đầu ra
- Kiểm tra và theo dõi việc sử dụng và chi phí các nguồn lực cần thiết. Các hệ thống thông tin sản xuất tác nghiệp và sách lược thường sử dụng dữ
liệu của hệ thống tài chính: mua hàng và công nợ phải trả, hàng tồn kho, bán hàng và công nợ phải thu, chi phí giá thành. Các nhà quản lý sản xuất sẽ sử dụng các thông tin này cùng với các hệ thống thông tin tác nghiệp sản xuất như hệ thống giao/nhận hàng, hệ thống kiểm tra chất lượng để hỗ cho quá trình ra quyết định tác nghiệp và sách lược.vd
Một số thông tin bên ngoài như các cơ sở dữ liệu trực tuyến của chính phủ, các cơ sở dữ liệu khoa học và công nghiệp lại cung cấp thông tin hỗ trợ cho các
quyết định chiến lược.vd
6.2.2. Các loại hệ thống thông tin sản xuất
6.2.2.1. Hệ thống thông tin sản xuất tác nghiệp
Có nhiều hệ thống thông tin tác nghiệp hỗ trợ chức năng sản xuất, đa phần
trong số đó là một phần của hệ thống thông tin kế toán tài chính như phân hệ mua hàng, công nợ phải trả, hàng tồn kho, xử lý đơn đặt hàng, công nợ phải thu hay lương.
Hệ thống t hông ti n mua hà ng
Hệ thống này có chức năng duy trì dữ liệu về mọi giai đoạn của quá trình cung cấp nguyên vật liệu và hàng hóa mua vào phục vụ sản xuất, ví dụ tệp dữ liệu về bảng giá nguyên vật liệu và hàng hóa phục vụ sản xuất, làm cơ sở lựa chọn nhà
cung cấp hay tệp các đơn đặt hàng.
Hệ thống t hông ti n nhậ n hà ng
Mỗi khi nhận hàng cần có sự kiểm nhận cẩn thận và chính xác về số lượng, chất lượng hàng giao nhận nhằm cung cấp thông tin cho các bộ phận liên quan như bộ phận công nợ phải trả, bộ phận kho và bộ phận sản xuất.
Hệ thống cung cấp các báo cáo gồm các thông tin về:
- Ngày nhận hàng
- Số hiệu và tên nhà cung cấp
- Số hiệu tên đặt hàng của đơn vị
- Mã hiệu mô tả các mặt hàng giao nhận
- Số lượng đặt mua và số lượng thưc giao nhận
- Thông tin về tình trạng hư hỏng của các hàng hóa giao nhận( nếu có )
Hệ thông t hông ti n kế toá n c hi phí giá thà nh
Nhiều phân hệ thông tin mức tác nghiệp của hệ thống tài chính kế toán thực hiện việc thu thập và báo cáo thông tin về các nguồn lực được sử dụng cho sản xuất,
trên cơ sở đó có thể xác định được chính xác chi phí sản xuất cho các sản phẩm và dịch vụ.
Các hệ thống kế toán chi phí giá thành kiểm soát ba nguồn lực chính cho sản
xuất:
- Nhân lực
- Nguyên vật liệu
- Máy móc thiết bị
Bên cạnh nhu cầu thông tin về ba nguồn lực trên các nhà quản lý sản xuất
còn cân đến cả những thông tin về bố trí sản xuất trong doanh nghiệp:
- Phương tiện vật chất nào được sử dụng cho sản xuất?
- Thời gian sử dụng
- Sử dụng cho sản phẩm dịch vụ nào
- Sử dụng bao nhiêu
Với các báo cáo được cung cấp bởi các hệ thống thông tin trên, các nhà quản lý có thể kiểm soát được chi phí sản xuất và việc phân bổ nguồn lực sản xuất
6.2.2.2 Hệ thống thông tin sản xuất mức sách lƣợc
Các hệ thống này hỗ trợ việc: điều khiển và kiểm soát quá trình sản xuất;
phân chia nguồn lực hiện có để đạt được các mục tiêu kinh doanh và sản xuất do mức chiến lược đề ra.
Hệ thống t hông ti n hoạc h đị nh nhu cầ u ng uyên vật liệ u
Hoạch định nhu cầu nguyên vật liệu là quá trình xác định chính xác mức
hàng dự trữ cần cho kế hoạch sản xuất, xác định khoảng thời gian cần thiết để có thể nhận được hàng từ nhà cung cấp, tính toán lượng đặt hàng với một chi phí hợp lý nhất, sau đó đặt mua tại thời điểm hợp lý nhất vào đúng lúc cần đến.
Hệ thống này cần phải xác định cho được:
- Loại vật liệu cần cho mỗi kỳ sản xuất
- Số lượng
- Thời gian cần vật liệu
- Lịch trình sản xuất các sản phẩm: những sản phẩm cần sản xuất, thời gian cần sản xuất các sản phẩm đó
- Hóa đơn nguyên vật liệu của sản phẩm
Hệ thống thông tin hoạc h đị nh nă ng lực sả n xuất
Mục tiêu của hoạch định năng lực sản xuất là để chắc chắn rằng nhân lực, máy móc và các phương tiện sản xuất có đủ vào đúng lúc cần để thỏa mãn nhu cầu
sản xuất như mục tiêu sản xuất đã đề ra.
Hệ thống có nhiệm vụ hỗ trợ việc hoạch định năng lực sản xuất thông qua
một trong hai kỹ thuật sau:
Một là, kỹ thuật hoạch định năng lực sơ bộ. Với kỹ thuật này người ta có thể đưa ra một ước tính sơ bộ về nhu cầu năng lực sản xuất, dựa trên lịch trình sản xuất
tổng hợp, nghĩa là các mục tiêu sản xuất có trong lịch trình sản xuất tổng hợp được biến đổi thành những nhu cầu về nhân lực cũng như về năng lực sản xuất( số giờ công lao động, số giờ khấu hao máy…) cần để đáp ứng các mục tiêu sản xuất. Sau đó những ước tính sơ bộ này sẽ được phân bổ cụ thể tới các nhóm làm việc cũng như các phân xưởng sản xuất, nhằm xác định tính khả thi của các mục tiêu sản xuất với phương tiện hiện có.
Mục đích của kỹ thuật này là xác định xem năng lực sản xuất đã đủ hay
chưa.
Thứ hai, kỹ thuật hoạch định nhu cầu năng lực chi tiết. kỹ thuật này cung
cấp những ước tính chi tiết về năng lực sản xuất hiện có. Hình thức hoạch định này cần những thông tin về nguồn nhân lực và hóa đơn nguyên vật liệu.
6.2.2.3 Các hệ thống thông tin sản xuất mức chiến lƣợc
Các quyết định chiến lược có thể là:
- Định vị doanh nghiệp
- Nâng cấp doanh nghiệp
- Xây dựng một doanh nghiệp mới
- Thiết kế và triển khai một phương tiện sản xuất mới
- Lựa chọn công nghệ được sử dụng trong quá trình sản xuât
Hệ thống lậ p kế hoạc h và đị nh vị doa nh ng hiệp
Thu thập thông tin cả bên trong và bên ngoài doanh nghiệp.
Một số thông tin bên ngoài tương đối khách quan và có thể đo đếm được
như:
- Tính sẵn có nhân công có tay nghề
- Phương tiện vận chuyển, chi phí vận chuyển nguyên vật liệu và thành phẩm
- Địa điểm và giá cả đất đai mới phục vụ cho sản xuất
Một số thông tin mang tính chủ quan và chỉ có thể định tính như thái độ của
cộng đồng đối với doanh nghiệp và chất lượng dịch vụ của cộng đồng: các cơ hội giáo dục và đào tạo.
Các nguồn thông tin bên trong xuất phát từ các hệ thống thông tin nhân lực,
tài chính và các hệ thống sản xuất tác nghiệp và sách lược.
6.2.3. Các phần mềm phục vụ quản trị kinh doanh và sản xuất
Có thể phân phần mềm máy tính hỗ trợ chức năng quản trị kinh doanh và sản xuất thành hai nhóm: phần mềm đa năng và phần mềm chuyên biệt.
6.3. Hệ thống thông tin quản trị nhân lực
6.3.1. Khái quát về quản trị nhân lực và thông tin cho quanr trị nhân lực
Trong một doanh nghiệp phòng quản trị nhân lực đảm đương nhiều chức
năng khác nhau:
- Tuyển mộ, đánh giá, phát triển và đào tạo nguồn nhân lực; đề bạt, thuyên
chuyển hay buộc thôi việc người lao động.
- Đảm bảo bảo hiểm, phúc lợi và dịch vụ cho người lao động.
- Cung cấp thông tin cho các nhà quản trị cấp cao nhất.
Để có thể quản trị một nguồn lực quan trọng và tốn kém như vậy ngày nay phòng quản trị nhân lực thường sử dụng các hệ thống thông tin quản trị nhân lực tác nghiệ, sách lược và chiến lược. Các hệ thống này không những trợ giúp cho phòng nhân lực lưu trữ các thông tin, lập các báo cáo định kỳ mà còn giúp họ trong việc kế hoạch bằng cách cung cấp cho họ công cụ để mô phỏng, dự báo, phân tích thống kê, truy vấn và thực hiện các chức năng xử lý nguồn nhân lực khác.
6.3.2. Các loại hệ thống thông tin nhân lực
6.3.2.1. Các loại hệ thống thông tin nhân lực tác nghiệp
Các hệ thống nhân lực mức tác nghiệp cung cấp cho quản trị viên nhân lực
dữ liệu hỗ trợ cho các quyết định nhân sự có tính thủ tục lặp lại. Có rất nhiều hệ thống thông tin tác nghiệp thực hiện việc thu thập và thông tin về các dữ liệu nhân
sự. Các hệ thống này chứa các thông tin về các công việc và nhân lực của tổ chức và thông tin về các quy định của chính phủ.
Hệ thống t hông ti n quả n lý lƣơ ng
Hệ thống có các tệp chứa các thông tin có ảnh hưởng tới lương của người lao động như: hệ số lương, nhóm thu nhập, và thâm niên nghề nghiệp của người lao động …những thông tin này cũng rất có ích cho các quản trị viên nhân lực ra quyết định. Với hệ quản trị cơ sở dữ liệu người ta thường thực hiện việc lưu dữ liệu với sự giảm thiểu tối đa sự trùng lắp số liệu giữa hệ thống quản lý lương và hệ thống nhân sự, nhưng vẫn đảm bảo sự tương thích về mặt dữ liệu giữa hai hệ thống này, đảm bảo cung cấp các báo cáo tầm sách lược từ dữ liệu của hai hệ thống này.
Hệ thống t hông ti n quả n lý vị trí là m việ c
Mục tiêu của hệ thống là xác định từng vị trí lao động trong tổ chức, phạm
trù nghề nghiệp của vị trí đó và nhân sự đang đảm đương vị trí đó.
Định kỳ hệ thống sẽ cung cấp một danh mục các vị trí lao động theo ngành
nghề, theo phòng ban bộ phận, theo nội dung công việc hoặc theo yêu cầu công việc cùng danh mục các vị trí làm việc còn khuyết nhân lực. Những danh mục liệt kê các vị trí làm việc còn khuyết theo ngành nghề sẽ rất có ích cho bộ phận quản trị nhân lực trong việc ra các quyết định tuyển người.
Hệ thống t hông ti n quả n lý ng ƣời la o động
Hệ thống này chứa tệp nhân sự. Tệp này chứa dữ liệu về bản thân các nhân
viên: họ tên, giới tính, tình trạng gia đình, trình độ học vấn, kinh nghiệm nghề nghiệp, quá trình làm việc trong doanh nghiệp …Từ đó hệ thống tạo ra danh mục
các kỹ năng về các nhân viên trong doanh nghiệp, danh mục này chứa các thông tin về kinh nghiệm làm việc, sở thích, và các khả năng đặc niệt khác của người lao động. Danh mục này có thể giúp các nhà quản trị viên nhân lực xác định được năng lực của từng người lao động từ đó và sắp xếp đúng người đúng việc để đảm bảo
hiệu quả lao động cao nhất; đồng thời danh mục này cũng được sử dụng để quyết định đề bạt, đào tạo hay thuyên chuyển người lao động.
Hệ thống t hông ti n đá nh giá tình hì nh t hực hiệ n c ông việc và con ng ƣời
Đánh giá tình hình thực hiện công việc là quá trình so sánh tình hình thực hiện công việc với yêu cầu đề ra. Đối với công nhân sản xuất làm việc theo mức độ
lao động có thể căn cứ vào phần trăm thực hiện mức lao động, chất lượng sản phẩm
… đối với các nhân viên việc đánh giá có phần hức tạp và khó khăn hơn.
Những đánh giá do hệ thống thông tin đánh giá tình hình thực hiện công việc và con người cung cấp được gọi là đánh giá biểu hiện. Dữ liệu phục vụ cho đánh giá
biểu hiện được thu thập bằng các mẫu đánh giá người lao động phát tới cấp trên trực tiếp của người lao động, hoặc phát tới người cùng làm việc, tới bản thân người lao động và thậm chí là tới khách hàng.
Thông tin đánh giá tình hình thực hiện công việc có thể dẫn tới hàng loạt các quyết định tác nghiệp như: sẽ giữ nguyên vị trí làm việc, sẽ đề bạt, sẽ thuyên
chuyển hoặc buộc phải thôi việc người lao động.
6.3.2.2. Các hệ thống thông tin nhân lực sách lƣợc
Các hệ thống thông tin nhân lực sách lược cung cấp cho nhà quản lý thông tin hỗ trợ cho các quyết định liên quan đến phân chia nguồn nhân lực. Các quyết định này gồm: quyết định tuyển người lao động, quyết định phân tích và thiết kế
việc làm, quyết định phát triển và đào tạo hay các quyết định kế hoạch hóa trợ cấp cho người lao động.
Hệ thống t hông ti n phâ n tíc h và thiết kế côn g việc
Phân tích và thiết kế công việc bao gồm quá trình mô tả các công việc cần
thiết của một doanh nghiệp và những năng lực, phẩm chất cần có của người nhân công để thực hiện các công việc đó.
Đầu vào của hệ thống là các dữ liệu thu được qua các cuộc phỏng vấn những
người phụ trách, những người lao động và các bản hưởng dẫn. Thông tin thu được từ bên ngoài cũng có thể là đầu vào của hệ thống, ví dụ từ các ngiệp đoàn lao động, từ các đối thủ cạnh tranh hay từ các tổ chức khác.
Đầu ra của hệ thống là các mô tả và đặc điểm công việc. Các thông tin này
giúp cho nhà quản lý ra các quyết định sách lược như việc xác định giá trị của một công việc so với những công việc khác trong doanh nghiệp từ đó nhà quản lý sẽ biết được mức lương trả cho người lao động, tránh việc gây lên bất bình cho người lao động.
Vai trò của hệ thống là giúp cho tổ chức xác định được các phẩm chất, kỹ năng và loại nhân lực cân tuyển dụng: cần tuyển ai và sắp xếp họ vào những công việc nào. Đồng thời hệ thống cũng tạo cơ sở để xác định mức chi trả cho người lao
động, để thực hiện việc đánh giá, đề bạt hay buộc thôi việc người lao động. Hệ
thống này hỗ trợ rất nhiều quyết định sách lược liên quan đến phân bổ nguồn nhân lực trong tổ chức.
Hệ thống t hông ti n t uyể n chọn nhâ n lực
Hệ thống này sẽ thực hiện thu thập và xử lý nhiều kiểu thông tin khác nhau cần để lên kế hoạch tuyển chọn nhân lực. Đó có thể là danh sách các vị trí làm việc còn trống, danh sách người lao động dự kiến đến tuổi nghỉ hưu, thuyên chuyển hay
buộc thôi việc, những thông tin về kỹ năng và sở trường của những người lao động và đánh giá về tình hình thực hiện công việc của người lao động.
Hệ thống cung cấp thông tin để giúp các nhà quản lý kiểm soát được các hoạt
động tuyển dụng.
6.3.2.3 Các hệ thống thông tin nhân lực chiến lƣợc
Kế hoạch hóa nguồn nhân lực và đàm phán lao động là hai hoạt động chủ
yếu của quản trị nhân lực mức chiến lược. kế hoạch hóa nguồn nhân lực là quá trình
mà thông qua nó các doanh nghiệp bảo đảm được đầy đủ số lượng và chất lượng người lao động phù hợp với yêu cầu công việc, vào đúng lúc để đạt được mục tiêu đề ra.
Có thể nói kế hoạch hóa nguồn nhân lực chính là việc dự báo cung cầu về nguồn nhân lực của tổ chức. Các dự báo sẽ tiến hành ước lượng đặc điểm, số lượng và chi phí cho nguồn nhân lực để đạt được các kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp.
Dự báo cầu về nguồn nhân lực là xác định kiểu và số lượng nhân lực cần cho kế hoạch chiến lược, còn việc xác định các nguồn nhân lực có sẵn trong doanh nghiệp và bên ngoài doanh nghiệp gọi là dự báo cung nhân lực.
Để tiến hành dự báo được các nhu cầu về nguồn nhân lực thì hệ thống thông tin nhân lực chiến lược phải hỗ trợ được cho nhà quản trị cấp chiến lược trả lời được các câu hỏi về kế hoạch hóa sau đây:
- Nguồn nhân lực của doanh nghiệp phải có kỹ năng, kinh nghiệm và phẩm
chất thế nào mới phù hợp với kế hoạch chiến lược? Đặc điểm và mô tả công việc do kế hoạch chiến lược đề ra là gì?
- Để thực hiện kế hoạch chiến lược đề ra, cần số lượng nhân lực với phẩm
chất đã nêu ở trên là bao nhiêu?
- Nguồn nhân lực hiện tại của doanh nghiệp như thế nào? Đã đáp ứng được bao nhiêu kế hoạch chiến lược?
- Còn những nguồn nhân lực nào khác để thực hiện kế hoạch chiến lược?
6.3.3. Phần mềm cho hệ thống thông tin nhân lực
Được chia làm hai loại: phần mềm đa năng và phần mềm chuyên dụng (được
phát triển để phục vụ riêng nhu cầu quản trị nhân lực )
6.3.3.1. Phần mềm đa năng
Là những phần mềm được sử dụng được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực
chức năng như: phần mềm quản trị cơ sở dữ liệu, phần mềm bảng tính và phần mềm thống kê.
6.3.3.2. Phần mềm chuyên dụng
6.4. Hệ thống thông tin tài chính
6.4.1. khái quát về thông tin tài chính
Chức năng quản trị tài chính
- Kiểm soát và phân tích điều kiện tài chính của doanh nghiệp
- Tính và chi trả lương, quản lý quỹ lương, tài sản, thuế
- Quản trị các hệ thống kế toán, Lập các báo cáo tài chính
- Quản trị quá trình lập ngân sách, dự toán vốn
- Quản trị công nợ khách hàng
- Hỗ trợ quá trình kiểm toán, nhằm đảm bảo tính chính xác của thông tin tài
chính và bảo vệ được vốn đầu tư
- Quản lý tài sản cố định
- Đánh giá các khoản đầu tư mới và khả năng huy động vốn cho các khoản đầu tư đó
- Quản lý dòng tiền của doanh nghiệp.
Các hệ thống thông tin tài chính cung cấp những thông tin nhằm hỗ trợ các nhà quản trị tài chính hoàn thành các công việc chức năng của mình. Cũng như các
hệ thống thông tin khác, hệ thống thông tin tài chính có thể được xếp thành ba mức: tác nghiệp, sách lược và chiến lược. Hệ thống thông tin mỗi mức sử dụng dữ liệu có phần khác nhau về mặt bản chất. Về nguyên tắc các hệ thống thông tin này được các nhân viên ở những mức khác nhau trong môt doanh nghiệp sử dụng và chúng hỗ trợ các quyết định ở những mức khác nhau. Thực chất không có sự tách biệt tuyệt đối giữa ba mức của hệ thống thông tin tài chính, mà chúng hợp thành một chuỗi liên hoàn, mô tả quá trình liên tục các hoạt động xảy ra trong doanh nghiệp.
6.4.2. Các loại hệ thống thông tin tài chính
6.4.2.1. Hệ thống thông tin tài chính tác nghiệp
Các hệ thống thông tin tài chính mức tác nghiệp cung cấp các thông tin đầu ra có tính thủ tục lặp lại cần cho mọi doanh nghiệp. Thông tin đầu ra có thể là các
phiếu trả lương, séc thanh toán với nhà cung cấp, hóa đơn bán hàng cho khách, đơn mua hàng, báo cáo hàng tồn kho. Các hệ thống thông tin tài chính mức tác nghiệp có đặc trưng là hướng nghiệp vụ. Chúng tập trung vào việc xử lý các nghiệp vụ tài
chính, nhằm cung cấp các thông tin tài chính cần thiết. Vậy nên, Các hệ thống thông tin tài chính mức tác nghiệp thường được gọi là hệ thống xử lý các nghiệp vụ.
Nghiệp vụ là những sự kiện hoặc sự việc diễn ra trong hoạt động kinh doanh mà nó làm thay đổi tình hình tài chính hoặc số thu về lời lãi. Ví dụ: Nhận đơn đặt
hàng của khách hàng, thanh toán lương …
Hệ thống thông tin kế toán
Một hệ thống kế toán tự động hóa bao gồm một loạt các chương trình hay
còn gọi là các phân hệ kế toán, được sử dụng độc lập hoặc theo kiểu tích hợp. Đó là những phân hệ:
- Kế toán vốn bằng tiền
- Kế toán bán hàng và công nợ phải thu
- Kế toán mua hàng và công nợ phải trả
- Kế toán hàng tồn kho
- Kế toán tài sản cố định
- Kế toán chi phí giá thành
- Kế toán tổng hợp
Khi các phân hệ kế toán tự động hóa này được tích hợp với nhau thì mỗi phân hệ sẽ nhận dữ liệu đầu vào từ các phân hệ khác, đồng thời mỗi phân hệ cũng thực hiện chức năng cung cấp thông tin đầu ra cho các phân hệ khác.
6.4..2.2. Hệ thống thông tin tài chính sách lƣợc
Các hệ thống thông tin sách lược hỗ trợ quá trình ra quyết định sách lược
bằng cách cung cấp cho nhà quản lý các báo cáo tổng hợp định kỳ, các báo cáo đột
xuất, các báo cáo đặc biệt và các thông tin khác nhằm hỗ trợ các nhà quản lý trong việc kiểm soát các lĩnh vực thuộc phạm vi trách nhiệm của họ và trong việc điều phối các nguồn lực nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Như vậy hệ thống thông tin tác nghiệp tập trung xử lý các giao dịch còn hệ thống thông tin sách lược lại tập trung vào các vấn đề phân chia nguồn lực.
Có thể thiết kế rất nhiều hệ thống thông tin sách lược dựa trên máy tính để hỗ trợ quá trình ra quyết định tài chính, điển hình là hệ thống thông tin ngân sách,
hệ thống quản lý vốn bằng tiền tệ, hệ thống dự toán vốn và hệ thống quản lý đầu tư.
Hệ thống t hông ti n ngâ n sác h
NS được hiểu là dự toán và thực hiện mọi khoản thu nhập (tiền thu vào) và chi tiêu (tiền xuất ra) của bất kì một cơ quan, xí nghiệp, tổ chức, gia đình hoặc cá
nhân trong một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm).
NS bao gồm các nguồn thu và các khoản chi. Cơ cấu thu, chi cụ thể của từng loại NS rất khác nhau, song mô hình cơ bản là: 1) Thu gồm có nguồn thu bên trong
và nguồn thu bên ngoài; 2) Chi gồm có chi cho tiêu dùng và chi cho đầu tư phát triển. Về nguyên tắc, cần coi trọng nguồn thu bên trong và chi cho đầu tư phát triển là chính, song cũng cần xem trọng nguồn thu từ bên ngoài và không thể coi nhẹ chi cho hoạt động thường xuyên
Hệ thống này lấy dữ liệu từ hệ thống kế toán, cụ thể là lấy dữ liệu về các số thu/chi. Sau đó hệ thống xử lý các dữ liệu thu được rồi cung cấp các thông tin cho phép nhà quản lý theo dõi số thu/chi thực hiện và so sánh chúng với số thu chi kế hoạch. Nó cho phép các nhà quản lý so sánh ngân sách của kỳ hiện tại với ngân sách của các kỳ tài chính trước đó hoặc so sánh ngân sách giữa các bộ phận, phòng ban với nhau. Trên cơ sở so sánh dữ liệu tài chính, các nhà quản trị tài chính có thể xác định được cách thức sử dụng nguồn lực hoặc là phân bổ ngân sách như thế nào để đạt được mục tiêu của họ.
Hệ thống t hông ti n quả n lý vốn bằ ng tiề n mặt
Chức năng quan trọng của quản lý tài chính là việc đảm bảo rằng doanh
nghiệp có đủ vốn bằng tiền để trang trải các khoản chi tiêu, sử dụng vốn nhàn rỗi vào đầu tư hoặc vay vốn để thỏa mãn nhu cầu tiền vốn trong những kỳ không đủ tiền.
tháng
Hệ thống có nhiệm vụ cung cấp thông tin về dòng tiền vào/ra trong mỗi
( thu: thu tiền mặt, thu khác; chi: chi tiền lương, thuế, quản cáo, mua sắm tài sản cố định ) trên cơ sở đó sẽ xác định được tháng nào có tiền nhàn rỗi để đem đi đầu tư hoặc tháng nào không đủ tiền vốn để doanh nghiệp còn có kế hoạch đi vay.
6.4.2.3. Hệ thống thông tin tài chính chiến lƣợc
Ngược với hệ thống thông tin tài chính tác nghiệp và sách lược hệ thống
thông tin tài chính chiến lược lấy mục tiêu của doanh nghiệp làm trọng tâm. Các hệ
thống này liên quan đến việc đặt ra mục tiêu và phương hướng hoạt động cho doanh nghiệp.
Hệ thống gồm nhiều thông tin khác nhau:
- Thông tin nội bộ, phân tích điều kiện tài chính của doanh nghiệp
- Thông tin kinh tế xã hội bên ngoài, mô tả môi trường hiện tại và tương lai của doanh nghiệp
- Những dự báo tương lai của doanh nghiệp về môi trường đó.
Hệ thống hỗ trợ việc lập kế hoạch tài chính chiến lược. Kết quả của việc lập kế hoạch tài chính chiến lược là các mục tiêu và phương hướng tài chính của doanh nghiệp. Kết quả thứ nhất bao gồm việc xác định các mục tiêu của đầu tư và thu hồi đầu tư, kết quả thứ hai bao gồm việc quyết định tận dụng các cơ hội đầu tư mới hoặc kết hợp các nguồn vốn để đầu tư cho doanh nghiệp.
Hệ thống hỗ trợ bằng cách cung cấp các công cụ để phân tích tình hình tài chính của doanh nghiệp và các công cụ để dự báo các yếu tố có ảnh hưởng đến
doanh nghiệp trong tương lai.
Hệ thống t hông ti n phâ n tíc h tình hì nh tài c hí nh c ủa doa nh ng hiệ p
Thực chất của phân tích tài chính doanh nghiệp chính là phân tích các báo
cáo tài chính doanh nghiệp.
Hệ thống có được những báo cáo như vậy từ việc lấy dữ liệu của HTTT kế toán. Ngoài ra hệ thống còn lấy dữ liệu tình hình tài chính của các đối thủ cạnh tranh, nhà cung cấp, người mua và các doanh nghiệp khác.
Hệ thống này cung cấp cho nhà quản lý nhiều phương thức đo lường khác nhau sự đúng đắn của một doanh nghiệp và cho phép tìm ra cách thức để cải thiện tình hình tài chính.
Hệ thống dự bá o dài hạ n
Các nhà hoạch định cần đến các dự báo về nhiều yếu tố ảnh hưởng đến doanh nghiệp trong tương lai.
Hệ thống dự báo doanh thu
Thu thập: Các thông tin nội bộ về doanh thu trong quá khứ
Cung cấp: Dự báo về doanh thu trong tương lai.
Thường thì thông tin sử dụng trong dự báo môi trường tương lai gồm việc
mô tả các hoạt động trong quá khứ của doanh nghiệp, dữ liệu kinh tế hiện tại và dự báo kinh tế trong tương lai, thông tin về dân số, cấu trúc dân số hiện tại, các dự báo về cấu trúc dân số, cấu trúc xã hội.
6.4.3. Phần mềm quản trị tài chính
Được chia làm hai loại: phần mềm đa năng và phần mềm chuyên dụng (được phát triển để phục vụ riêng nhu cầu quản trị quản trị tài chính).
Chƣơng 7: HỆ THỐNG THÔNG TIN HỖ TRỢ RA QUYẾT ĐỊNH
7.1. Vai trò của nhà quản lý
Vai trò của nhà quản lý được chia làm ba nhóm: vai trò cá nhân, thông tin và quyết định.
Vai trò Hệ thống hỗ trợ
Vai trò cá nhân
Người đại diện Không tồn tại
Người lãnh đạo Không tồn tại
Người liên lạc HTTT truyền thông điện tử
Vai trò thông tin
Trung tâm đàu não HTTT phục vụ quản lý
Người phổ biến HTTT OAS
Người phát ngôn HTT OAS, KWS
Vai trò quyết định
Chủ doanh nghiệp Không tồn tại
Xử lý các vụ lộn
xộn Không tồn tại
Phân phối nguồn
lực HTTT hỗ trợ ra quyết định
Người đàm phán Không tồn tại
7.2. Quá trình ra quyết định trong doanh nghiệp
7.2.1. Các mức độ ra quyết định
Quá trình ra quyết định quản trị có thể phân theo cấp quản lý như sau:
Ra các quyết định chiến lƣợc: chính là quá trình xác định các mục tiêu, chính sách dài hạn của doanh nghiệp.
Ra quyết định chiến thuật: căn cứ vào quyết định chiến lược và các nguồn lực có liên quan trong tổ chức.
Ra quyết định ở cấp chuyên gia: xem xét, đánh giá các sáng kiến của các
chuyên gia, những nhà nghiên cứu.
Ra quyết định tác nghiệp: quá trình này thường diễn ra một các nhanh chóng. Vì những quyết định này thường chỉ có tính lặp lại, ít có tính phân tích
7.2.2. Các dạng quyết định
Một quyết định được gọi là không có cấu trúc nếu không có quy trình rõ ràng để làm ra quyết định và các thông tin liên quan để xem xét trong quá trình ra quyết định không thể xác định được trước một cách thường xuyên. Các quyết định này thường là những quyết định đặc thù, nhanh thay đổi, hoặc là những quyết định mới lạ.Ví dụ:
Quyết định có cấu trúc là quyết định có tính lặp lại, thường gặp và các thông tin để xem xét trong quá trình ra quyết định có thể xác định được. Ví dụ:
Có những quyết định có dạng nửa cấu trúc.
Trong các tình huống phải ra các quyết định có cấu trúc rõ ràng thì các thông tin cần thiết đều được xác định trước, nhưng trong môi trường không có cấu trúc thì việc xác định các thông tin như vậy rất là khó khăn.
7.3. Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định
7.3.1. Khái niệm
Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định là hệ thống thông tin vi tính hỗ trợ
cho các nhà quản lý ra các quyết định có cấu trúc không rõ ràng.
Hệ thống chủ yếu hỗ trợ cho cấp trung gian, và các chuyên gia trong doanh
nghiệp.
Hệ thống hỗ trợ ra quyết định bằng cách phân tích và tính toán các dữ liệu
các tình huống để xác định các thông tin cần thiết.
7.3.2. Các yếu tố cấu thành của hệ thống
Khi nghiên cứu và xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định, yêu cầu quan trọng của hệ thống là phải trợ giúp người sử dụng giải quyết kịp thời các vấn đề đặt ra trong thực tế, bao gồm các đặc trưng sau:
- Hệ thống có khả năng trả lời các câu hỏi “Nếu như”.
- Sử dụng các mô hình để mô phỏng các vấn đề trong thực tiễn.
- Sử dụng khả năng tương tác người - máy.
- Nhấn mạnh đến việc kết xuất thông tin bằng hình ảnh.
Các yếu tố cấu thành hệ thống: cơ sở dữ liệu, cơ sở mô hình mô hình, và phần mềm.
Cơ sở dữ liệu: Hệ thống không tạo ra hoặc cập nhật dữ liệu, hệ thống lấy dữ liệu cần thiết có thể xuất phát từ nhiều nguồn thông tin hoặc từ các cơ sở dữ liệu khác nhau. Ngoài ra có thể kết hợp với các cơ sở dữ liệu cơ bản - nguồn thông tin mà hệ xử lý tác nghiệp và các hệ thống thông tin quản lý sử dụng
Tuy nhiên hệ thống không trực tiếp cập nhật dữ liệu. Vì 2 nguyên nhân, thứ nhất do việc lấy dữ liệu trực tiếp dễ dẫn đến sự thay đổi đột ngột hoặc không thích hợp cho dữ liệu bị lấy, hai là mất thời gian của chính hệ thống DSS và các hệ thống bị lấy dữ liệu.
Cơ sở mô hình mô hình: Bao gồm tập hợp các mô hình phân tích và toán học. Hệ thống hỗ trợ cho nhiều mục đích khác nhau, với mỗi mục đích hệ thống sẽ tạo ra một tập các mô hình để phục vụ mục đích đó.
Phần mềm: hệ thống gồm một tập phần mềm hỗ trợ nhà quản lý ra quyết định. Tập phần mềm này có tác dụng giúp người sở dụng giao tác với CSDL và cơ sở mô hình của hệ thống, và liên kết dữ liệu với các mô hình. Tập các phần mềm phải thân thiện với người sử dụng.
7.3.3. Xây dựng hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định
Hệ thống hỗ trợ ra quyết định có đặc thù riêng khác với các loại hệ thống khác. Vì hệ thống cần ít dữ liệu, các dữ liệu thường không được trao đổi một cách trực tiếp, người sử dụng là những người lãnh đạo, sử dụng nhiều mô hình phân tích, tính toán hơn các hệ thống khác. Những sự khác biệt này dẫn đến việc xây dựng hệ thống có nhiều khác biệt so với các hệ thống khác. Việc xây dựng hệ thống đòi hỏi phải có sự tham gia của người sử dụng ở mức cao nhất.
Phân tích: Đối với các hệ thống nói chung có mục đích là xác định yêu cầu thông tin của người sử dụng. Nhưng đối với hệ thống DSS thì các yêu cầu về thông tin là chưa rõ ràng và khó xác định
7.4. Hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định theo nhóm
Những điểm cần lưu ý:
- So sánh hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định với hệ thống thông tin hỗ trợ ra quyết định theo nhóm.
- Lợi ích của hệ thống đối với các cuộc họp theo nhóm.
7.5. Sử dụng một số công cụ Excel trong hỗ trợ ra quyết định
Hướng dẫn sinh viên dùng Excel để giải các bài tập:
- Phân tích độ nhạy và phân tích hồi quy
- Bài toán phân tích tình huống
- Bài toán điểm hòa vốn bằng Goal seek
- Bài toán quy hoạch tuyến tính
Đăng ký:
Nhận xét (Atom)